Chùa Phật Linh

http://chuaphatlinh.com


KINH TỤNG HẰNG NGÀY

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
KINH  TỤNG
HẰNG NGÀY
 
    
 
                  THÍCH THIỆN THANH
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
PHẬT LỊCH 2560 – DƯƠNG LỊCH 2016
MỤC LỤC
 
* Mục lục.....................................................
* Nghi thức Công Phu Khuya.................... 1
* Nghi thức Cầu an.................................. 21
* Nghi thức Mông Sơn Thí Thực cô hồn. 39
*Nghi thức Sám Hối Hồng Danh............. 53
* Nghi thức Cầu Siêu Tịnh độ................. 69
* Nghi thức Lễ Vu Lan............................ 91
* Nghi thức tụng Kinh Dược Sư............ 119
* Nghi thức tụng Kinh Kim Cang.......... 145
* Nghi thức An Vị Phật.......................... 173
* Nghi thức Quá Đường........................ 183
* Nghi thức  Cúng Vong........................ 191
* Nghi thức Phóng sanh......................... 201
* Nghi thức Lễ Thành Hôn.................... 211
* Nghi thức Lễ Phật Đản....................... 221
* Nghi thức Cúng Sao Giải Hạn............ 229
* Các bài sám........................................ 251
* Các ngày vía........................................ 279
* Các ngày chay..................................... 281
 
 
 
NGHI THỨC CÔNG PHU KHUYA
 
NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI
(Thắp đèn, đốt trầm xong, toàn thể đứng ngay ngắn, chắp tay để ngang ngực mật niệm)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
Án lam tóa ha. (3 lần)
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
(Vị chủ lễ  thắp 3 cây hương, quỳ ngay thẳng,
cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng hương).
 
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương,
Phảng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sanh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chống quay về bờ Giác.
 
CẦU NGUYỆN
Hôm nay ngày . . . tháng . . . năm . . .; tại . . . . . đệ tử chúng con nguyện mười phương thường trú Tam Bảo, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, từ bi gia hộ chúng con, bồ đề tâm kiên cố, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, cùng pháp giới chúng sanh, một thời đồng chứng vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.  (1 tiếng chuông, xá 1 xá)
 
TÁN THÁN PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loại,
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
c kiếp cũng không cùng.
 
QUÁN TƯỞNG
Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng, đạo cảm thông không thể nghĩ bàn, lưới đế châu ví đạo tràng, mười phương Phật hiện hào quang sáng ngời, trước bảo tọa thân con ảnh hiện, cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (1 tiếng chuông, xá 1 xá)
 
ĐẢNH  LỄ
(Vị chủ lễ xá 3 xá rồi niệm lớn)
Chí tâm đảnh lễ nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng  thường  trú Tam Bảo. (đồng lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ nam mô Tà Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (đồng lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (đồng lạy 1 lạy)
 
TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT
Lư hương vừa ngún hương trầm,
Khói xông ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh.
         Nam Mô Hương cúng dường Bồ Tát ma ha tát. (3 lần, 1 tiếng chuông)
 
KINH LĂNG NGHIÊM
NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT.
                                           (3 lần, 1 tiếng chuông)
Tâm Chánh Định như như bất động
Phật Ba Thân nhân thế khó tìm
Trăm ngàn muôn kiếp đảo điên
Vô minh dứt sạch, chứng liền Pháp Thân.
Nay con nguyền chứng ngôi Chánh Giác
Độ chúng sanh như cát Sông Hằng
Thân, tâm nầy nát như trần (bụi)
Hồng ân chư Phật, chút phần báo ơn.
Cung thỉnh Thế Tôn lại chứng minh
Đời năm trược con xin vào trước
Một chúng sanh quả Phật chưa thành
Con nguyền không chứng Vô Sanh Niết Bàn.
Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi
Giúp con dứt sạch sân, si, buồn, phiền
Để sớm được lên miền Thượng Giác
Ngồi đạo Tràng bát ngát mười phương
Hư không có thể tiêu tan
Nguyện con kiên cố không hề lung lay.
(1 tiếng chuông)
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Phật
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Pháp
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Tăng
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Kim Cang Tạng Bồ Tát. (1 tiếng chuông)
Lúc bấy giờ, từ nhục kế của Phật phóng ra hào quang trăm báu cùng với hoa sen ngàn cánh. Trong mỗi hoa sen, có Hóa Phật ngồi, từ đảnh Hóa Phật phóng ra mười đạo hào quang trăm báu. Mỗi đạo hào quang hiện ra nhiều Thần Kim Cang Mật Tích, ông thì bưng núi, ông thì cầm xử, vân vân… đứng khắp cả cõi hư không. Đại chúng trông thấy, vừa mừng vừa sợ, đều cầu chư Phật thương xót chở che, một lòng lắng nghe Phật nói thần chú: (1 tiếng chuông)
 
 
ĐỆ NHỨT HỘI
Nam mô tát đát tha tô già đa da a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà tỏa. Tát đát tha Phật đà cu tri sắc ni sam.
Nam mô tát bà bột đà bột địa, tát đa bệ tệ.
Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đà, cu tri nẩm. Ta xá ra bà ca tăng già nẩm.
Nam mô lô kê a la hán đa nẩm.
Nam mô tô lô đa ba na nẩm.
Nam mô ta yết rị đà già di nẩm.
Nam mô lô kê tam miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẩm.
Nam mô đề bà ly sắt nõa.
Nam mô tất đà da tỳ địa da đà ra ly sắt nõa. Xá ba noa yết ra ha, ta ha ta ra ma tha nẩm.
Nam mô bạt ra ha ma ni.
Nam mô nhơn đà ra da.
Nam mô bà già bà đế, lô đà ra da. Ô ma bát đế, ta hê dạ da.
Nam mô bà già bà đế. Na ra dả noa da. Bàn giá ma ha tam mộ đà ra.
Nam mô tất yết rị đa da.
Nam mô bà già bà đế, ma ha ca ra da. Địa rị bác lặc na già ra. Tỳ đà ra, ba noa ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị già noa.
Nam mô tất yết rị đa da.
Nam mô bà già bà đế. Đa tha già đa cu ra da.
Nam mô bát đầu ma cu ra da.
Nam mô bạt xà ra cu ra da.
Nam mô ma ni cu ra da.
Nam mô già xà cu ra da.
Nam mô bà già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà da, đa tha già đa da.
Nam mô bà già bà đế.
Nam mô a di đa bà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.
Nam mô bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.
Nam mô bà già bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bát ra bà ra xà da, đa tha già đa da.
Nam mô bà già bà đế, tam bổ sư bí đa, tát lân nại ra lặc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.
Nam mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.
Nam mô bà già bà đế, lặc đát na kê đô ra xà da, đa tha già đa đa, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da, đế biều nam mô tất yết rị đa, ế đàm bà giá bà đa, tát đát tha già đô sắc ni sam, tát đát đa bác đát lam.
Nam mô a bà ra thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạt ra bí địa da sất đà nể, a ca ra mật rị trụ, bát rị đát ra da nảnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà đột sắc tra, đột tất phạp bát na nể phạt ra ni, giả đô ra thất đế nẩm. Yết ra ha ta ha tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắc tra băng xá đế nẩm, na xoa sát đát ra nhã xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra nẩm, ma ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nể bà ra nhã xà, hô lam đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá tất đát ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra thị đa cu ra, ma ha bác ra chiến trì, ma ha điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà ra, ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nể, a rị da đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạt xà ra ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đằng dõng ca, bạt xà ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bác ra chất đa, bạt xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma lô ba, ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra a bát ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắt tát đa giá, tỳ địa gia kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đá na, bệ rô giá na cu rị da, dạ ra thố sắt ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá ca ma ra, sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế mẫu đà ra yết noa. Ta bệ ra sám, quật phạm đô. Ấn thố na mạ mạ tỏa. (1 tiếng chuông)
 
ĐỆ NHỊ HỘI
Ô hồng, rị sắt yết noa, bác lặc xá tất đa, tát đát tha già đô sắc ni sam. Hổ hồng, đô lô ung, chiêm bà na. Hổ hồng, đô lô ung tất đam bà na. Hổ hồng, đô lô ung ba ra sắc địa da tam bác xá noa yết ra. Hổ hồng, đô lô ung tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẩm, yết ra ha ta ha tát ra nẩm, tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm, tát đát tha già đô sắc ni sam, ba ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ. A tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca, ma ha bạt xà lô đà ra, đế rị bồ bà na, mạn trà ra. ô hồng, ta tất đế bạt bà đô, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa. (1 tiếng chuông)
 
ĐỆ TAM HỘI
Ra xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà dạ, bà ra chước yết ra bà dạ, đột sắt xoa bà dạ, a xá nể bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà dạ, đà ra ni bộ di kiếm, ba già ba đà bà dạ, ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàn trà bà dạ, na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, bổ đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra ha, tất kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẩm, yết bà ha rị nẩm, lô địa ra ha rị nẩm, mang ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẩm, ma xà ha rị nẩm, xà đa ha rị nữ, thị tỷ đa ha rị nẩm, tỳ đa ha rị nẩm, bà đa ha rị nẩm, a du giá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam, tát bà yết ra ha nẩm.
Tỳ đà dạ xà sân dà dạ di, kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, trà diễn ni hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát du bát đát dạ, lô đà ra hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na ra dạ noa hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa già rô trà tây hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha ca ra ma đát rị già noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dà di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dà di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma độ yết ra tát bà ra tha ta đạt na hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, giả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương hất rị tri, nan đà kê sa ra già noa bát đế, sách hê dạ hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, na yết na xá ra bà noa hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, a la hán hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, bạt xà ra ba nễ, cu hê dạ, cu hê dạ ca địa bát đế hất rị đởm.
Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra xoa võng, bà già phạm. Ấn thố na mạ mạ tỏa. (1 tiếng chuông)
ĐỆ TỨ HỘI
Bà già phạm, tát đát đa bát đát ra. Nam mô túy đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đát rị.Thập Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà.
 Hổ hồng, hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, ba ra bà ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn.
Tát bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ phấn, tát bà bổ đơn na tệ phấn, ca tra bổ đơn na tệ phấn.
Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá tất ma lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát ma đà kê tệ phấn.
Tát bà tỷ đà da ra thệ giá lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà ra tha ta đà kê tệ phấn, tỳ địa da giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nể tệ phấn, bạt xà ra cu ma rị.
Tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương xoa kỳ rị tệ phấn, bạt xà ra thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra xà da phấn, ma ha ca ra da ma ha mạt đát rị ca noa.
Nam mô ta yết rị đa dạ phấn, tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệt đát rị duệ phấn, lao đát rị duệ phấn, giá văn trà duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bát rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma xá na, bà tư nể duệ phấn, diễn kiết chất, tát đỏa bà tỏa, mạ mạ, Ấn thố na mạ mạ tỏa. (1 tiếng chuông)
 
ĐỆ NGŨ HỘI
Đột sắc tra chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ đa ha ra, bạt lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa ha ra, bát ba chất đa, đột sắc tra chất đa, lao đà ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết ra ha, bế lệ đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, trạch khê cách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, lao đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kiền độ ba ni yết ra ha.
Thập phật ra yên ca hê ca, trụy đế dược ca, đát lệ đế dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỷ sam ma thập phạt ra, bạt để ca, tỷ đế ca, thất lệ sắc mật ca, ta nể bát đế ca, tát bà thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra ha yết lam, yết noa du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt mạ du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam, thường già du lam, hắc tất đa du lam, bạt đà du lam, ta phòng án già bát ra trượng già du lam, bộ đa tỷ đa trà, trà kỳ ni thập bà ra, đà đột rô ca kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bát rô ha lăng già, du sa đát ra, ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liễm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắc chất ca, tát bà na cu ra, tứ dẫn già tệ yết ra, rị dược xoa, đát ra sô, mạt ra thị phệ đế sam, ta bệ sam, tất đát đa bát đát ra, ma ha bạt xà lô sắc ni sam, ma ha bát lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột đà xá dụ xà na, biện đát lệ noa. Tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà, bàn đàm ca lô di, đát điệt tha.
Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn. Hổ hồng, đô lô ung phấn, ta bà ha. (3 lần, 1 tiếng chuông)
 
CHÚ ĐẠI BI
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni: Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a  bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ca cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (1 tiếng chuông)

THẬP CHÚ

1. CHÚ NHƯ Ý BẢO LUÂN VƯƠNG ĐÀ LA NI.

Nam mô Phật Đà Da.
Nam Mô Đạt Ma Da.
Nam Mô Tăng Già Da.
Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát, cụ đại bi tâm giả, đát điệt tha. Án, chiết yết ra phạt để, chấn đa mạc ni, ma ha bát đẳng mế, rô rô rô rô, để sắc tra, thước ra a yết rị, sa dạ hồng, phấn ta ha. Án, bát đạp ma, chấn đa mạt ni, thước ra hồng. Án, bát lặc đà, bát đẳng mế hồng. (1 tiếng chuông)

2. TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ.

Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẩm, a bát ra để hạ đa xá đa nẳng nẩm, đát điệt tha. Án khư khư, khư hê, khư hê, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc xá, để sắc xá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ ta bà ha. (1 tiếng chuông)
3. CHÚ CÔNG ĐỨC BẢO SƠN.
Nam mô Phật Đà Da,
Nam Mô Đạt Ma Da,
Nam Mô Tăng Già Da.
Án, tất đế hộ đô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha. (1 tiếng chuông)
4. CHÚ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ.
Khể thủ quy y tô tất đế, đầu diện đảnh lễ thất cu chi, ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề, duy nguyện từ bi thùy gia hộ. Nam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đề, cu chi nẩm, đát điệt tha. Án, chiết lệ chủ lệ, chuẩn đề, ta bà ha. (1 tiếng chuông)
5. CHÚ THÁNH VÔ LƯỢNG THỌ QUYẾT ĐỊNH QUANG   MINH VƯƠNG ĐÀ LA NI.
Án nại ma ba cát ngọa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nể, thiệt chấp đạp, điệp tả ra tể dã, đát tháp cả đạt dã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt dã, đát nể dã tháp. Án tát rị ba, tang tư cát rị, bót rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại, tang mã ngột cả đế, ta ba ngỏa, tỷ thuật đế, mã hắt nại dã, bát rị ngỏa rị tá hắt. (1 tiếng chuông)
6. CHÚ DƯỢC SƯ QUÁN ĐẢNH.
Nam mô bạt dà phạt đế bệ sát xả lu lô thích lưu ly, bát lặc bà hắc ra xà dã, đát tha yết đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tá ha. (1 tiếng chuông)
7. CHÚ QUAN ÂM LINH CẢM
Án ma ni bát di hồng, ma hắc nghê nha nạp, tích đô đặt ba đạt, tích đặt ta nạp, vi đạt rị cát, tát nhi cáng nhi tháp, bốc rị tất tháp cát nạp, bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu thát ban nạp. Nại ma lô kiết, thuyết ra da, tá ha. (1 tiếng chuông)
8. CHÚ THẤT PHẬT DIỆT TỘI
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha.  (1 tiếng chuông)
 
9. CHÚ VÃNG SANH TỊNH ĐỘ.
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị đô bà tì, a di rị đa tất đam bà tì, a di rị đa tì ca lan đế, a di rị đa tì ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.   (1 tiếng chuông)

10. CHÚ THIỆN THIÊN NỮ

Nam mô Phật Đà.
Nam mô Đạt Mạ.
Nam mô Tăng Già.
Nam mô thất lỵ, ma ha để tỷ da, đát nể dã tha, ba lỵ phú lầu na, giá lỵ tam mạn đà, đạt xá ni, ma ha tỳ ha ra dà đế, tam mạn đà, tỳ ni dà đế, ma ha ca rị dã, ba nễ, ba ra, ba nễ, tát rị phạ lạt tha, tam mạn đà, tu bác lê đế, phú lệ na, a rị na, đạt ma đế, ma ha tỳ cổ tất đế, ma ha Di lặc đế, lâu phả tăng kỳ đế, hê đế tỷ, tăng kỳ hê đế, tam mạn đà, a tha a nậu, đà la ni.        (1 tiếng chuông)
TỤNG BÁT NHÃ
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH.
      Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế.
Này Ông Xá Lợi Phất, tướng không của mọi pháp không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong chân không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ hết khổ ắt, chân thật không hư. Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”. (1 tiếng chuông)
 Ma ha Bát Nhã Ba La Mật Đa. (3 lần)
KHEN NGỢI PHẬT
Chúng thanh tịnh từ xưa đến nay,
Đọc tụng Lăng Nghiêm, các phẩm chú,
Hồi hướng Tam Bảo, chúng Long Thiên,
Ủng hộ già lam chư Thánh Chúng,
Tam đồ bát nạn đều lìa khổ,
Tứ ân tam hữu đều được ân;
Quốc giới an ninh, binh tiêu diệt,
Mưa hòa, gió thuận dân an lạc;
Đại chúng chuyên tu mong tinh tấn,
Thập địa vượt bậc không khó gì,
Tam môn thanh tịnh hết ngu si,
Người thí quy y thêm phước huệ
Dù cho đếm hết được bụi trần
Dù cho nước biển đều uống cạn
Hư không đo được, gió tính hết,
Cũng không nói hết công đức Phật.
Trên trời thế gian không như Phật,
Mười phương thế giới không sánh bằng,
Cõi thế gian mà con nhìn hết,
Tất cả không ai như Phật cả.
Nam mô Ta Bà Thế Giới, tam giới đạo sư, tứ sanh từ phụ, nhơn thiên giáo chủ, thiên bá ức hóa thân Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật. (108 lần)
Nam mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
TỤNG SÁM PHỔ HIỀN
Đệ tử chúng con
Tu tập thuận theo
Phổ Hiền Bồ Tát,      
Mười điều nguyện lớn.
Một là lễ kính chư Phật,
Hai là khen ngợi Như Lai,
Ba là rộng tu cúng dường,
Bốn là sám hối nghiệp chướng,
Năm là tùy hỷ công đức,
Sáu là thỉnh chuyển pháp luân,
Bảy là thỉnh Phật trụ thế,
Tám là thường học theo Phật,
Chín là hằng thuận chúng sanh,
Mười là hồi hướng khắp cả. (1 tiếng chuông)
 
TÁN LỄ
Xưng tán Đức Thế Tôn
Đấng vô thượng Năng Nhơn
Từng trải vô lượng kiếp
Tu nhân lành giải thoát
Từ Đâu Xuất giáng thần.
Giã từ ngôi quốc vương
Ngồi gốc Đại Bồ Đề
Phá hết chúng ma quân
Một sáng, sao mai hiện
Chứng nên Đạo Bồ Đề
Liền chuyển bánh xe Pháp
Độ muôn loài chúng sanh
Hàng Tam Thừa quy ngưỡng
Đạo vô sanh viên thành
Đại chúng đang quy ngưỡng
Đạo Vô Sanh sẽ thành.
Bốn loài, chín cõi đồng về
Mười phương cõi Phật bốn bề trang nghiêm
Ba đường, tám nạn đảo điên
Nương vào “biển tuệ” vô biên sáng ngời.
 
HỒI HƯỚNG
Tụng Kinh công đức hạnh nhiệm mầu,
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu,
Tất cả chúng sanh trong pháp giới,
Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan,
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời,
Nguyện cho con được đời đời,
Hành Bồ Tát đạo cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây phương cõi Lạc bang,
Sen vàng chín phẩm là cha mẹ,
Hoa nở thấy Phật quả viên thành,
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành,
Đệ tử hướng tâm thành,
Cầu cho khắp chúng sanh,
Đều chứng thành Phật quả.
 
LẠI NGUYỆN
Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo. (3 lần)
Thượng chúc Phật nhật tăng huy, pháp luân thường chuyển. Phong điều vũ thuận, quốc thới dân an, thiên hạ thái bình nhân dân an lạc.
NGUYỆN KHẮP PHÁP GIỚI
  Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, tình dữ vô tình tề thành Phật đạo.
 
QUY Y TAM BẢO
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)
 

 
 
 
NGHI THỨC CẦU AN
 
NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI
(Thắp đèn, đốt trầm xong, toàn thể đứng ngay ngắn, chắp tay để ngang ngực mật niệm)
 
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
Úm lam xóa ha. (3 lần)
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN
Úm ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
(Vị  chủ lễ  thắp 3 cây hương, quỳ  ngay  thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng hương).
 
CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương,
Phưởng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sanh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ Giác. (3 lần)
                 
CẦU NGUYỆN
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Linh Cảm Ứng Quan Thế Âm Bồ Tát tác đại chứng minh.
Hôm nay ngày . . . tháng . . . năm . . .; tại . . . đệ tử chúng con phát nguyện trì tụng kinh Phổ Môn, xưng tán Hồng Danh và niệm Phật công đức. Chúng con ngưỡng nguyện mười phương Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát phóng quang gia hộ đệ tử . . .pháp danh . . . thân được mạnh khỏe, tâm được an lạc, phiền não đoạn diệt, nghiệp chướng tiêu trừ, sở cầu như ý, sở nguyện sớm viên thành. (1 tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy)
 
KHEN NGỢI PHẬT
(Đứng dậy, cắm hương lên lư rồi vị chủ lễ chắp tay đứng thẳng và niệm)
Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loại,
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
            Ức kiếp cũng không cùng.  (3 lần)
 
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật chúng sinh tánh thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châu ví đạo tràng,
Mười phương Phật hiện hào quang sáng ngời,
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (3 lần)
 
ĐẢNH LỄ
(Vị chủ lễ xá 3 xá rồi niệm lớn)
Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường  trú Tam Bảo. ( Lạy 1 lạy)
Nam mô Tà Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. ( Lạy 1 lạy)
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (Lạy 1 lạy)
 
TÁN DƯƠNG CHI
Cành dương nước tịnh nhiệm mầu
Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau
Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh
Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn
Cam lồ rưới khắp trần gian
Lửa sân dứt sạch, sen vàng nở hoa.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
 
TRÌ NIỆM CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni: Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a  bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ca cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần,1 tiếng chuông)
 
KỆ KHAI KINH
Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. ( 3 lần, tiếng chuông)
 
PHẨM PHỔ MÔN
Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần,  tiếng chuông).
PHẬT NÓI KINH PHÁP HOA
PHẨM PHỔ MÔN THỨ HAI MƯƠI LĂM
Lúc bấy giờ Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai mặt, chắp tay hướng Phật và bạch rằng: “ Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán Thế Âm ?” (1 tiếng chuông)
Phật bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát: “Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các sự khổ não, thoáng nghe Quán Thế Âm Bồ Tát, hay một lòng xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát liền được giải thoát. Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, dầu vào trong lửa lớn lửa chẳng cháy đặng, nhờ sức oai thần của Bồ Tát. Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát liền đặng đến chỗ cạn. Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm các thứ châu báu như: vàng bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô hổ phách, trân châu...., vào trong biển lớn. Giả sử có bão thổi ghe thuyền của kẻ kia trôi tấp nơi nước của quỷ La Sát. Trong số đó nếu có một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời những người kia đều đặng thoát khỏi nạn quỷ La Sát. Do nhân duyên đó tên là Quán Thế Âm. (1 tiếng chuông)
Nếu lại có người sắp bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời dao gậy của người kia cầm gãy từng khúc liền đặng thoát khỏi. Nếu quỷ Dạ Xoa cùng La Sát đầy trong cõi Tam Thiên Đại Thiên muốn đến hại người: Nghe người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, các quỷ đó không thể dùng mắt dữ nhìn người huống lại làm hại đặng. Lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thảy đều đứt rã, liền đặng thoát khỏi. (1 tiếng chuông)
Nếu có người thương gia dắt đoàn người buôn, mang theo nhiều của báu, đi ngang qua đường hiểm trở, nhiều kẻ oán tặc. Trong số đó, có một người nói rằng: “ Các thiện nam tử, chớ có sợ sệt! Các ông phải nên một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát đó, hay đem pháp vô úy, thí cho chúng sanh, nếu các ông xưng danh hiệu Ngài sẽ được thoát khỏi nơi oán tặc này. “ Đoàn người buôn nghe xong, đều xưng niệm: “ Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát.” Nhờ xưng danh hiệu Bồ Tát nên họ được thoát khỏi. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm đại Bồ Tát có sức oai thần rộng lớn như thế!
Nếu chúng sanh nhiều tham lam, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát liền hết tham lam. Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền hết giận hờn. Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát liền hết ngu si. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần rộng lớn, nhiều sự lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ đến Ngài. Nếu có người nữ muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sanh con trai phước đức trí huệ: muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, mọi người kính mến. Nếu chúng sanh cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, phước đức chẳng mất, cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần như thế!
Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ Tát, lại trọn đời cúng dường thức ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang, ý ông nghĩ sao? Công đức của thiện nam, tín nữ đó có nhiều chăng?
(1 tiếng chuông)
Vô Tận Ý thưa: “ Bạch Thế Tôn! Rất nhiều.”         
Phật dạy: “ Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường thời phước đức của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận. Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế.”
Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi trong cõi Ta Bà như thế nào? Phương tiện thuyết Pháp của Ngài ra sao? (1 tiếng chuông)
Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát: “ Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật để độ thoát, Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Bích Chi Phật để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Bích Chi Phật để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Thanh Văn để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Thanh Văn để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Phạm Vương để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Phạm Vương để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Đế Thích để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Đế Thích để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Tự Tại Thiên để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Tự Tại Thiên để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Tỳ Sa Môn để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Tỳ Sa Môn để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Tiểu Vương để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Tiểu Vương để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Trưởng Giả để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Trưởng Giả để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Cư Sĩ để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Cư Sĩ để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Tể Quan để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Tể Quan để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Bà La Môn để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Bà La Môn để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Tỳ Kheo, Tỳ  Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di để nói pháp. Nơi đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể Quan, Bà La Môn để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân phụ nữ để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Đồng nam, Đồng nữ để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Đồng nam, Đồng nữ để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân cùng phi nhân...v..v.. để độ thoát, Bồ Tát liền hiện những thân đó để nói pháp. Nơi đáng dùng thân Thần Chấp Kim Cang để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Thần Chấp Kim Cang để nói pháp. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát trọn nên công đức như thế, dùng nhiều thân hình dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh. Vì vậy, các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.
(1 tiếng chuông).
Ở trong chỗ tai nạn, sợ sệt, Quán Thế Âm Bồ Tát hay ban cho sự vô úy, nên trong cõi Ta Bà này, Ngài có tên là Thí Vô Úy.
Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: “ Thế Tôn! Con nay xin cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu, giá trị trăm ngàn lượng vàng nơi cổ đem cúng dường cho Ngài Quán Thế Âm và nói rằng: “ Xin Ngài nhận chuỗi ngọc trân bảo pháp thí này”.
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng chịu nhận chuỗi.
Ngài Vô Tận Ý lại thưa Quán Thế Âm Bồ Tát: “ Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này.”
Bấy giờ, Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: “ Ông nên thương Vô Tận Ý và hàng tứ chúng, cùng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân và phi nhân ...v..v.. mà nhận chuỗi ngọc này. (1 tiếng chuông)
Tức thời, Quán Thế Âm Bồ Tát, thương hàng tứ chúng, Trời , Rồng, nhân và phi nhân..v..v.. nhận chuỗi ngọc đó và chia làm hai phần: một phần dâng cúng đức Thích Ca Mâu Ni, một phần để vào tháp của đức Phật Đa Bửu. “ Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần tự tại hiện thân khắp cõi Ta Bà như thế”.
Lúc đó, Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát hỏi Phật rằng:
“Thế Tôn đủ tướng tốt!
Con nay được thăm hỏi
Phật tử nhân duyên gì
Tên là Quán Thế Âm?”
Đức Phật trả lời rằng:
“Này ông Vô Tận Ý
Ông nghe hạnh Quán Âm
Hiện thân khắp các nơi.
Lời thề sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn đức Phật.
Pháp nguyện thanh tịnh lớn
Ta vì ông lược nói
Nghe tên cùng thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các nơi.
Giả sử sanh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi dạt biển lớn.
Các nạn quỷ, cá, rồng
Do sức niệm Quán Âm
Sông ngòi chẳng chìm đặng.
Hoặc ở chóp Tu Di
Bị người xô rớt xuống
Do sức niệm Quán Âm
Như mặt nhựt treo không.
Hoặc bị người dữ rượt
Rớt xuống núi Kim Cang
Do sức niệm Quán Âm
Chẳng tổn đến mảy lông. (1 tiếng chuông)
Hoặc gặp oán tặc vây
Đều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán Âm
Đều liền sanh lòng lành.
Hoặc bị khổ nạn Vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán Âm
Dao liền gãy từng đoạn.
Hoặc tù còng xiềng xích
Tay chân bị gông cùm
Do sức niệm Quán Âm
Tháo rã đặng thoát khỏi.
Nguyền rủa các thuốc độc
Muốn hại đến kẻ khác
Do sức niệm Quán Âm
Trở lại nơi người hại. (1 tiếng chuông)
Hoặc gặp La Sát dữ
Rồng độc, các loài Quỷ
Do sức niệm Quán Âm
Liền đều không dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quán Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng
Rắn độc cùng Bò Cạp
Hơi độc, khói lửa đốt
Do sức niệm Quán Âm
Nghe tiếng tự bỏ đi.
Mây sấm nổ sét đánh
Tuôn giá, xối mưa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Liền được tiêu tan cả.
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian. (1 tiếng chuông)
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiện.
Các loài trong đường dữ
Địa ngục, quỷ, súc sanh
Sanh, già, bệnh, chết khổ
Lần lần đều dứt hết.
Chơn quán, thanh tịnh quán
Trí huệ quán rộng lớn
Bi quán và từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.
Sáng thanh tịnh không nhơ
Huệ nhật phá các tối
Hay phục tai gió lửa
Khắp soi sáng thế gian.
Lòng bi răn như sấm
Ý từ diệu dường mây
Xối mưa pháp Cam Lồ
Dứt trừ lửa phiền não. (1 tiếng chuông)
Cãi kiện qua chổ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán Âm
Cừu oán đều lui tan.
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm Âm, Hải Triều Âm
Tiếng hơn thế gian kia
Cho nên thường phải niệm.
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Âm bậc tịnh thánh
Nơi khổ não nạn chết
Ngài là nơi nương cậy.
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phước lớn không lường
Chúng ta nên đảnh lễ. (1 tiếng chuông)
Bấy giờ, Ngài Trì Địa Bồ Tát, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật và bạch rằng: “ Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe đạo nghiệp và sự thị hiện thần thông tự tại của Quán Thế Âm Bồ Tát này, phải biết công đức của người đó chẳng ít.” (1 tiếng chuông)
Khi Phật nói Phẩm Phổ Môn này, trong hội có tám muôn bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
 
PHẬT NÓI KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA PHẨM PHỔ MÔN CHƠN NGÔN VIẾT
Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta bà ha. (3 lần, 1 tiếng chuông)
LỤC TỰ ĐẠI MINH CHÂN NGÔN
Án, ma ni bát di hồng. (7 lần, 1 tiếng chuông)
 
NGỢI KHEN ĐỨC QUÁN ÂM
Phổ môn thị hiện
Cứu khổ nhân sinh
Thuyền từ lướt sóng
Bốn biển điêu linh
Trùng dương vọng tiếng hồn kinh
Quán Âm ứng hiện, chúng sanh thoát nàn.
Nam Mô Thánh Quan Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, 1 tiếng chuông)
 
THẬP NHỊ NGUYỆN
1 – Nam Mô hiệu Viên Thông danh Tự Tại, Quán Âm Như Lai, quảng phát hoằng thệ nguyện. (1 lạy)
2 – Nam Mô nhứt niệm tâm vô quái ngại, Quán Âm Như Lai thường cư Nam Hải nguyện. (1 lạy)
3 – Nam Mô trụ Ta Bà, U Minh giới, Quán Âm Như Lai tầm thinh cứu khổ nguyện. (1 lạy)
4 – Nam Mô hàng tà ma, trừ yêu quái, Quán Âm Như Lai, năng trừ nguy hiểm nguyện. (1 lạy)
5 – Nam Mô Thanh Tịnh bình thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai, cam lồ sái tâm nguyện. (1 lạy)
6 – Nam Mô Đại Từ Bi, năng hỷ xả, Quán Âm Như Lai, thường hành bình đẳng nguyện. (1 lạy)
7 – Nam Mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quán Âm Như Lai thệ diệt tam đồ nguyện. (1 lạy)
8 – Nam Mô vọng nam nham, cần lễ bái, Quán Âm Như Lai, già tỏa giải thoát nguyện. (1 lạy)
9 – Nam Mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quán Âm Như Lai độ tận chúng sanh nguyện. (1 lạy)
10 – Nam Mô tiền tràng phan, hậu bảo cái, Quán Âm Như Lai tiếp dẫn Tây Phương nguyện. (1 lạy)
11 – Nam Mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quán Âm Như Lai, Di Đà thọ ký nguyện. (1 lạy)
12 – Nam Mô đoan nghiêm thân vô tỉ tái, Quán Âm Như Lai, quả tu thập nhị nguyện. (1 lạy)
 
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
TÂM KINH
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế.
Này Ông Xá Lợi Phất, tướng không của mọi pháp không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong chân không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư.
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”. (1 tiếng chuông)
 
TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẩm, a bát ra để hạ đa xá đa nẳng nẩm, đát điệt tha. Án khư khư, khư hê, khư khê, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc xá, để sắc xá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ ta bà ha. (3 lần)
 
SÁM CẦU AN
Con quỳ lạy Phật chứng minh
Hai hàng Phật tử tụng Kinh cầu nguyền
Cầu cho tín chủ hiện tiền
Nội gia quyến thuộc bình yên điều hòa
Thọ trường hưởng phước nhàn ca
Phổ môn kinh tụng trong nhà thảnh thơi
Quan Âm phò hộ vui chơi
Mười hai câu niệm độ đời nên danh.
Thiện nam tín nữ lòng thành
Ăn chay niệm Phật làm lành vái van
Quan Âm xem xét thế gian
    Rước người chìm nổi mười phương phiêu trầm. (1 tiếng chuông)
Mau mau niệm Phật Quán Âm
Tai qua nạn khỏi định tâm sáng lòa
Đương cơn lửa cháy đốt ta
Niệm danh Bồ Tát hóa ra sen vàng.
Gió đông đi biển chìm thuyền
Niệm danh Bồ Tát sóng tan hết liền
Tà ma quỉ báo khùng điên
Niệm danh Bồ Tát mạnh liền khôn ngoan.
Vào rừng cọp rắn nghinh ngang
Niệm danh Bồ Tát nó càng chạy xa.
Tội tù ngục tối khảo tra
Quan Âm  tưởng niệm thả ra nhẹ nhàng.
Bị trù bị ếm mê man
Quan Âm niệm niệm vái van tịnh bình
Quan Âm thọ ký làm tin
Tùy duyên thuyết pháp độ mình hết mê.
Nương theo Bồ Tát trở về
Thấy mình ngồi gốc Bồ Đề giống in
Tay cầm bầu nước tịnh bình
Tay cầm nhành liễu quang minh thân vàng
Cam lồ rưới khắp thế gian
Tốt tươi mát mẻ mười phương thanh nhàn
Quan Âm cứu hết tai nàn
Độ đời an lạc mười phương thái bình
Quan Âm điểm đạo độ mình
Quan Âm Bồ Tát chứng minh độ đời. (1 tiếng chuông)
 
KHEN NGỢI PHẬT DI ĐÀ
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh.
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành,
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật. (3 xâu chuỗi)
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)
 
HỒI HƯỚNG
Cầu an công đức, hạnh nhiệm mầu,
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu,
Tất cả chúng sanh trong pháp giới,
Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan,
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời,
Nguyện cho con được đời đời,
Hành Bồ Tát đạo cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây phương cõi Lạc Bang,
Sen vàng chín phẩm là cha mẹ mình,
Hoa nở thấy Phật quả viên thành,
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành,
Đệ tử hướng tâm thành,
Cầu cho khắp chúng sanh,
Đều chứng thành Phật quả. (1 tiếng chuông)
 
LẠI NGUYỆN
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật!
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Linh Cảm Ứng Quan Thế Âm Bồ Tát!
Tam Bảo chứng minh, oai thần hộ niệm, hôm nay đệ tử chúng con một dạ chí thành trì tụng kinh chú, xưng tán hồng danh, cầu nguyện cho Phật tử (tên …, pháp danh …) chư tai tiêu diệt, tật bệnh tiêu trừ, tội diệt, phước sanh, căn lành tăng trưởng, chí tu học vững bền xa bể khổ nguồn mê, chóng quay về bờ giác. (1 tiếng chuông)
NGUYỆN KHẮP PHÁP GIỚI
Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, tình dữ vô tình tề thành Phật đạo. (1 tiếng chuông)
 
QUY Y TAM BẢO
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 tiếng chuông, 1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như hải. (1 tiếng chuông, 1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 tiếng chuông, 1 lạy)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
NGHI THỨC
MÔNG SƠN THÍ THỰC CÔ HỒN
 
NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI
(Thắp đèn, đốt trầm xong, toàn thể đứng ngay ngắn, chắp tay để ngang ngực mật niệm)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
Úm lam tóa xa. (3 lần)
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN
Úm ta phạ bà phạ, truật đà, ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
(Vị chủ lễ  thắp 3 cây hương,quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng hương)
CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương,
Phảng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sanh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ Giác. (1 tiếng chuông)
 
CẦU NGUYỆN
Hôm nay ngày . . . tháng . . . năm . . .; tại địa chỉ . . . đệ tử chúng con tên . . ., pháp danh là . . . sắm sửa hương hoa phẩm vật, thiết lập đàn tràng thí thực cô hồn các đảng, vất vưởng thê lương, không nhà không cửa, không nơi nương tựa, đói khát thảm thương, hoặc nơi chiến trường hoang dã, ngã gục tan thây, hoặc nơi thâm sơn cùng cốc, rắn độc gấu beo, hoặc nơi sông sâu biển rộng, cá, sấu vây quanh, xé nát thân ra, từng mảnh miếng nhỏ. Tất cả oan hồn uổng tử, nay mời về đây núp bóng từ quang, dự đàn thí thực, nương nhờ Phật lực, nghe Kinh niệm Phật, thọ tài hưởng thực siêu sinh Tịnh Độ. Ngưỡng mong đức từ phụ Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, Địa Tạng Vương Bồ Tát từ bi tiếp độ. (1 tiếng chuông)
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.  (3 lần)
 
KHEN NGỢI PHẬT
(Đứng dậy, cắm hương lên lư rồi vị chủ lễ chắp tay đứng thẳng và niệm)
Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loại,
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
Ức kiếp cũng không cùng. (1 tiếng chuông)
 
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng, đạo cảm thông không thể nghĩ bàn, lưới đế châu ví đạo tràng, mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời, trước bảo tọa thân con ảnh hiện, cúi đầu xin thệ nguyện quy y.  (1 tiếng chuông)
ĐẢNH LỄ
(Vị chủ lễ xá 3 xá rồi niệm lớn)
Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường  trú Tam Bảo. (Lạy 1 lạy)
Nam mô Tà Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (Lạy 1 lạy)
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (Lạy 1 lạy)
 
TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT
Lư hương vừa ngún hương trầm
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam Mô Hương cúng dường Bồ Tát ma ha tát. (3 lần, 1 tiếng chuông)
 
ÁN THỈNH CÔ HỒN
Hỡi Cô Hồn trước sau tề tựu,
Nghe lời khuyên để sửa lỗi mình,
Quan Âm, Địa Tạng oai linh,
Thích Ca, Phật Tổ, câu kinh giải nàn.
Hỡi uổng tử hồn oan phảng phất,
Noi theo tâm Phật làm gương,
Ta Bà cực khổ trăm đường
Mau tu thì được Phật thương cứu độ.
Hỡi hương hồn chết chìm đáy biển,
Và bao người ngộ độc bỏ thân,
Nghe chuông thức tỉnh dần dần,
Đừng ham danh lợi phù trần nhiễu nhương.
Hỡi Cô Hồn chết thiêu chết chém,
Hổ giảo thân bị yểm bị trù,
Kịp tìm kinh kệ sớm tu,
Khỏi vòng xích tội nghiệp tù oan gia.
Hỡi hồn thác trong cơn binh lửa,
Chết phong ba, chết giữa núi non,
Khi nghe chuông giục boong boong,
Hương thơm tỏa khắp, hồn còn nghe kinh.
Hỡi hồn ở đầu gành cuối bãi,
Nương gió mây, phảng phất lời xưa,
Hồn ơi, hồn hỡi tránh chừa,
Những người gian ác dối lừa Phật Tiên.
Các hồn bị Gấu, Beo, Rắn cắn,
Cùng những hồn số vắt vô danh,
Hãy nghe Kinh Kệ ăn năn,
Rồi đây hồn sẽ vô ngần thảnh thơi.
Hỡi những hồn vì lời dèm xiểm,
Đã hủy mình chết lụn căm gan,
Sớm nghe Kinh Kệ, lời vàng,
Phật liền dẫn lối chỉ đàng hồn tu.
Xin hồn tỉnh hướng về Phật Tổ,
Ngài từ bi cứu độ vong linh,
Bao hồn sinh tử tử sinh,
Hôm nay hồn được nghe Kinh Pháp mầu.
 
MÔNG SƠN THÍ THỰC
Nam Mô Diệm Nhiên Vương Bồ Tát. (3 lần)
Lửa đói đốt thành sắt chảy,
Cô Hồn đói khát than van,
Muốn sanh về chốn Lạc Bang,
Hoa Nghiêm phúng tụng vài hàng như sau:
“Nếu muốn biết rõ, ba đời chư Phật,
quán pháp giới tánh, đều do tâm tạo”.
CHÚ PHÁ ĐỊA NGỤC
Án dà ra đế da ta bà ha. (3 lần)

CHÚ THỈNH CÔ HỒN

                  Nam mô bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát đa nga đa da. (3 lần)

CHÚ GIẢI OAN KIẾT

Án tam đà ra dà đà ta bà ha. (3 lần)

THỈNH PHẬT VÀ BỒ TÁT

Nam Mô Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh. (3 lần)
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Phật
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Pháp
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Tăng
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Minh Vương Cứu Khổ Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam Mô Khải Giáo A Nan Đà Tôn Giả. (3 lần)

QUY Y TAM BẢO

Quy y Phật. quy y Pháp, quy y Tăng.
Quy y Phật đấng phước trí vẹn toàn,
Quy y Pháp đạo thoát ly tham dục,
Quy y Tăng bậc tu hành cao tột. (3 lần)
Quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi. (3 lần)

SÁM HỐI

Phật Tử vốn tạo các vọng nghiệp,
Đều do vô thỉ tham, sân, si,
Từ thân miệng ý phát sinh ra,
Phật Tử thảy đều xin sám hối.
Hữu Tình vốn tạo các vọng nghiệp,
Đều do vô thỉ tham, sân, si,
Từ thân miệng ý phát sinh ra,
Hữu Tình thảy đều xin sám hối.
Cô Hồn vốn tạo các vọng nghiệp,
Đều do vô thỉ tham, sân, si,
Từ thân miệng ý phát sinh ra,
Cô Hồn thảy đều xin sám hối.

NGUYỆN ĐỘ

Chúng sanh không số lượng,
Thệ nguyện đều độ hết,
Phiền não không cùng tận,
Thề nguyện đều dứt sạch,
Pháp môn không kể xiết,
Thệ nguyện đều tu học,
Phật đạo không gì hơn,
Thệ nguyện trọn viên thành. (3 lần)
 
Tự tánh chúng sanh, thệ nguyện độ
Tự tánh phiền não, thệ nguyện đoạn
Tự tánh pháp môn, thệ nguyện học
Tự tánh Phật đạo, thệ nguyện thành. (3 lần)
 

CHÚ DIỆT ĐỊNH NGHIỆP

Án bát ra mạt lân đà nảnh ta bà ha. (3 lần)

CHÚ DIỆT NGHIỆP CHƯỚNG

Án a lổ lặc kế ta bà ha. (3 lần)

CHÚ KHAI YẾT HẦU

Án bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát đa nga đa da. (3 lần)

CHÚ TAM MUỘI DA GIỚI

Án tam muội da tát đỏa phạm. (3 lần)

CHÚ BIẾN THỰC

Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (3 lần)

CHÚ BIẾN THỦY

Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha, án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha. (3 lần)

CHÚ CAM LỒ THỦY

Án noan noan noan noan noan. (3 lần)

CHÚ NHŨ HẢI

Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẫm án noan. (3 lần)

NIỆM DANH HIỆU PHẬT VÀ BỒ TÁT

Nam mô Đa Bảo Như Lai.
Nam mô Bảo Thắng Như Lai.
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai.
Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai.
Nam mô Ly B Úy Như Lai.
Nam mô Cam L Vương Như Lai.
Nam mô A Di Đà Như Lai. (3 lần)

CÚNG THÍ CHO PHẬT TỬ, HỮU TÌNH VÀ CÔ HỒN

Oai linh thần chú phi thường, thực phẩm biến thành Tịnh Pháp Thực, cúng thí vô số chúng Phật Tử, cầu cho no ấm hết xan tham, thoát khỏi U Minh về cõi Tịnh, quy y Tam Bảo rõ Đạo Mầu, rốt ráo trọn nên bậc Vô Thượng, công đức không lường ở vị lai, tất cả Phật Tử Đồng Pháp Thực.
Oai linh thần chú phi thường, Thế Pháp biến thành Pháp Thí Thực, cúng thí vô số chúng Hữu Tình, cầu cho no ấm hết xan tham, thoát khỏi U Minh về cõi Tịnh, quy y Tam Bảo rõ Đạo Mầu, rốt ráo trọn nên bậc Vô Thượng, công đức không lường ở vị lai, tất cả Hữu Tình Đồng Pháp Thực.
Oai linh thần chú phi thường, nước mát biến thành nước cam lồ, cúng thí vô số chúng Cô Hồn, cầu cho no ấm hết xan tham, thoát khỏi U Minh về cõi Tịnh, quy y Tam Bảo rõ Đạo mầu, rốt ráo trọn nên bậc Vô Thượng, công đức không lường ở vị lai, tất cả Cô Hồn Đồng Pháp Thực.
Tất cả chúng Phật Tử, tôi nay nguyện cúng dường, cơm nầy biến khắp mười phương, các hàng Phật Tử, miên trường ấm no. Nguyện đem công đức nầy, hướng về khắp tất cả, tôi và các Phật Tử đều trọn thành Phật Đạo.
Tất cả chúng Hữu Tình, tôi nay nguyện cúng dường, cơm nầy biến khắp mười phương, Hữu Tình các loại miên trường ấm no. Nguyện đem công đức nầy, hướng về khắp tất cả, tôi và các Hữu Tình đều trọn thành Phật Đạo.
Tất cả chúng Cô Hồn, tôi nay nguyện cúng dường, cơm nầy biến khắp mười phương, Cô Hồn các loại miên trường ấm no. Nguyện đem công đức nầy, hướng về khắp tất cả, tôi và các Cô Hồn đều trọn thành Phật Đạo.

CHÚ THÍ THỰC VÔ GIÁ

Án mục lực lăng ta bà ha. (3 lần)

CHÚ PHỔ CÚNG DƯỜNG

Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)
 
MA HA  BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH.
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế.
Này Ông Xá Lợi Phất, tướng không của mọi pháp, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong chân không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư”.
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”. (1 tiếng chuông)
 
VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHÂN NGÔN
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị độ bà tì, a di rị đa tất đam bà tì, a di rị đa tì ca lan đế, a di rị đa tì ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
 
SÁM CẦU SIÊU
Trên bảo tọa khói hương nghi ngút
Tấm lòng thành chí thiết từ đây
Mây lành năm sắc phủ vây
Chở che nhân loại lắm thay oan hồn.
Vẫn biết chữ “tử qui sanh ký”
Người trần ai ai dễ sống lâu
Nhân vì nghĩa nặng ân sâu
Thương tình đồng loại với nhau một dòng
Sanh bất hạnh nhầm đời mạt pháp
Chịu trăm bề khốn khổ xiết bao
Sống thời vất vả lao đao
Chết không toàn thể thây giao tử thần.
Nay chúng con hết lòng cầu khẩn
Xin Phật từ cứu độ vong linh
Ngưỡng nhờ chư Phật cao minh
Xót thương nhân loại phù sinh vô thường.
Hễ có sinh là có bi thương
Kiếp luân hồi lắm nẽo tai ương
Hữu hình hữu hoại, vô thường
Có không không có là thường phù du.
Dầu tài sắc trăm năm vẫn thế
Kiếp phù sinh há dễ sống lâu
Oan hồn trôn nổi đâu đâu
Ráng nghe Kinh kệ ngõ hầu siêu thăng.
Xin kịp đến quy y Tam Bảo
Nước nhành dương rửa sạch lòng trần
Gội nhuần Phật đức thâm ân
Bao nhiêu tội chướng cũng lần tiêu tan.
Nay hết lúc hồn vương ảo ảnh
Kịp trở về thắng cảnh Tây Phương
Oan hồn nương khói hương thơm
Tiêu diêu Cực Lạc sớm hôm an nhàn. ( 1 tiếng chuông)
 
KHEN NGỢI PHẬT DI ĐÀ
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, tu Di uyễn chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh.
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành,
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật. (3 xâu chuỗi)
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)
 
HỒI HƯỚNG
Cầu siêu công đức, hạnh nhiệm mầu,
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu,
Tất cả chúng sanh trong pháp giới,
Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan,
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời,
Cầu cho con được đời đời,
Hành Bồ Tát đạo cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây phương cõi Lạc bang,
Sen vàng chín phẩm là cha mẹ mình,
Hoa nở thấy Phật quả viên thành,
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành,
Đệ tử hướng tâm thành,
Cầu cho khắp chúng sanh,
Đều chứng thành Phật quả.
 
LẠI NGUYỆN
Nam Mô A Di Đà Phật!
Xe tam thừa lộng lẫy, thuyền bát nhã thênh thang, sáu đường dốc ngược đèo ngang, ba cõi sông mê lặn hụp. Thảm nỗi oan khiên, lắm lúc hương linh không đủ phước vãng sanh.
Ngưỡng nguyện Bổn Sư Vô Lượng Thọ, Quán Âm Thế Chí Thánh Hiền Tăng, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát thùy từ phóng quang tiếp độ chư vong linh, hương . . . nay được an lành, nghe kinh niệm Phật, vượt qua bể khổ, thoát khỏi Ta Bà, nhất tâm niệm Phật vãng sanh Cực Lạc, sen vàng chín phẩm nở hoa Pháp Thân A Di Đà phóng quang tiếp độ.
 
NGUYỆN KHẮP PHÁP GIỚI
Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, tình dữ vô tình tề thành Phật đạo.
 
QUY Y TAM BẢO
- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)
- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (1 lạy)
- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)
 
 
 
 
 

NGHI THỨC SÁM HỐI HỒNG DANH
 
NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI
(Thắp đèn, đốt trầm xong, toàn thể quỳ ngay ngắn, chắp tay để ngang ngực mật niệm)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
Úm lam tóa ha. (3 lần)
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN
Úm ta phạ bà phạ, truật đà, ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
(Vị chủ lễ  thắp 3 cây hương, quỳ  ngay  thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng hương)
CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương,
Phảng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sanh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ Giác.( 1 tiếng chuông)
 
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loại,
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
Ức kiếp cũng không cùng. ( 1 tiếng chuông)
 
CẦU NGUYỆN
Đệ tử chúng con nguyện ngôi Tam Bảo thường trú trong mười phương, Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, chứng minh cho chúng con. Chúng con lâu đời lâu kiếp, tâm tánh hôn mê, chẳng kể chánh tà, gây nhiều tội ác, tổn người hại vật, báng Phật, Pháp, Tăng. Hôm nay một dạ chí thành, nguyện xin sám hối, ngưỡng mong oai đức từ bi, nhũ lòng lân mẫn, gia hộ cho chúng con, tội chướng tiêu trừ, căn lành thêm lớn, cùng pháp giới chúng sanh, tu đạo Bồ Đề, trang nghiêm phước huệ, một thời đồng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. ( 1 tiếng chuông)
 
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng, đạo cảm thông không thể nghĩ bàn, lưới đế châu ví đạo tràng, mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời, trước bảo tọa thân con ảnh hiện, cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (1 tiếng chuông)
 
ĐẢNH LỄ
(Vị chủ lễ xá 3 xá rồi niệm lớn)
Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường  trú Tam Bảo. (1 lạy)
Nam mô Tà Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 lạy)
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)
 
TÁN DƯƠNG CHI
Cành dương nước tịnh nhiệm mầu
Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau
Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh
Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn
Cam lồ rưới khắp trần gian
Lửa sân dứt sạch, sen vàng nở hoa.
            Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
TRÌ NIỆM CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.(3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni: Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a  bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
 
KỆ KHAI KINH
Thăm thẳm cao siêu pháp nhiệm mầu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm,
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)
 
NAM MÔ HỒNG DANH HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT. (3 lần, 1 tiếng chuông)
Đại Từ  Đại Bi thương chúng sanh
Đại Hỉ Đại Xả cứu muôn loài
Thân vàng tướng tốt sáng ngời
Chúng con đảnh lễ Phật thời chứng minh. (1 tiếng chuông)
     Nam mô quy y Kim Cang Thượng Sư, quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Con nay phát tâm chẳng vì tự cầu phước báu nơi chốn Nhơn Thiên hay quả Thanh Văn, Duyên Giác, nhẫn đến các quả vị Bồ Tát tối cao, con chỉ phát lòng Bồ Đề rộng lớn nguyện cho chúng sanh trong pháp giới, cùng một lúc đồng chứng ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
 (1 tiếng chuông)
Con xin quy y khắp mười phương cùng tận cõi hư không tất cả các Đức Phật.
Con xin quy y khắp mười phương cùng tận cõi hư không tất cả Tôn Pháp.
Con xin quy y khắp mười phương cùng tận cõi hư không tất cả Hiền Thánh Tăng.
Nam Mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Nam Mô Phổ Quang Phật.
Nam Mô Phổ Minh Phật.
Nam Mô Phổ Tịnh Phật.
Nam Mô Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật.
Nam Mô Chiên Đàn Quang Phật.
Nam Mô Ma Ni Tràng Phật.
Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Ma Ni Bửu Tích Phật.
Nam Mô Nhứt Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật.
Nam Mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật.
Nam Mô Huệ Cự Chiếu Phật.
Nam Mô Hải Đức Quang Minh Phật.
Nam Mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật.
Nam Mô Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh Phật.
Nam Mô Đại Bi Quang Phật.
Nam Mô Từ Lực Vương Phật.
Nam Mô Từ Tạng Phật.
Nam Mô Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật.
Nam Mô Hiền Thiện Thủ Phật.
Nam Mô Thiện Ý Phật.
Nam Mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật.
Nam Mô Kim Hoa Quang Phật.
Nam Mô Bửu Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật.
Nam Mô Hư Không Bửu Hoa Quang Phật.
Nam Mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật.
Nam Mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật.
Nam Mô Bất Động Trí Quang Phật.
Nam Mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật.
Nam Mô Tài Quang Minh Phật.
Nam Mô Trí Huệ Thắng Phật.
Nam Mô Di Lặc Tiên Quang Phật.
Nam Mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật.
Nam Mô Thế Tịnh Quang Phật.
Nam Mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật.
Nam Mô Nhựt Nguyệt Quang Phật.
Nam Mô Nhựt Nguyệt Châu Quang Phật.
Nam Mô Huệ Tràng Thắng Vương Phật.
Nam Mô Sư Tử Hầu Tự Tại Lực Vương Phật.
Nam Mô Diệu Âm Thắng Phật.
Nam Mô Thường Quang Tràng Phật.
Nam Mô Quang Thế Đăng Phật.
Nam Mô Huệ Oai Đăng Vương Phật.
Nam Mô Pháp Thắng Vương Phật.
Nam Mô Tu Di Quang Phật.
Nam Mô Tu Ma Na Hoa Quang Phật.
Nam Mô Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật.
Nam Mô Đại Huệ Lực Vương Phật.
Nam Mô A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật.
Nam Mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật.
Nam Mô Tài Quang Phật.
Nam Mô Kim Hải Quang Phật.
Nam Mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật.
Nam Mô Đại Thông Quang Phật.
Nam Mô Nhứt Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật.
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Kim Cang Bất Hoại Phật.
Nam Mô Bửu Quang Phật.
Nam Mô Long Tôn Vương Phật.
Nam Mô Tinh Tấn Quân Phật.
Nam Mô Tinh Tấn Hỷ Phật.
Nam Mô Bửu Hỏa Phật.
Nam Mô Bửu Nguyệt Quang Phật.
Nam Mô Hiện Vô Ngu Phật.
Nam Mô Bửu Nguyệt Phật.
Nam Mô Vô Cấu Phật.
Nam Mô Ly Cấu Phật.
Nam Mô Dõng Thí Phật.
Nam Mô Thanh Tịnh Phật.
Nam Mô Thanh Tịnh Thí Phật.
Nam Mô Ta Lưu Na Phật.
Nam Mô Thủy Thiên Phật.
Nam Mô Kiên Đức Phật.
Nam Mô Chiên Đàn Công Đức Phật.
Nam Mô Vô Lượng Cúc Quang Phật.
Nam Mô Quang Đức Phật.
Nam Mô Vô Ưu Đức Phật.
Nam Mô Na La Diên Phật.
Nam Mô Công Đức Hoa Phật.
Nam Mô Liên Hoa Quang Du Hý Thần Thông Phật.
Nam Mô Tài Công Đức Phật.
Nam Mô Đức Niệm Phật.
Nam Mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật.
Nam Mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật.
Nam Mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật.
Nam Mô Đấu Chiến Thắng Phật.
Nam Mô Thiện Du Bộ Phật.
Nam Mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Đức Phật.
Nam Mô Bửu Hoa Du Bộ Phật.
Nam Mô Bửu Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương Phật.
Nam Mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật. (3 tiếng chuông)
Các Đức Phật thường trụ trong đời, nên thương xót chúng con. Hoặc đời này của con, hoặc đời trước của con, con từ vô thỉ, sống chết đến nay, gây nhiều tội lỗi, hoặc tự con làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy người làm, con vui mừng theo. Đồ vật của chùa, đồ vật của Thầy hay của các Thầy, hoặc tự con lấy, hoặc bảo người lấy, hoặc thấy người lấy, con vui mừng theo. Năm Tội vô gián, hoặc tự con làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy người làm, con vui mừng theo. Mười điều bất thiện, hoặc tự con phạm, hoặc bảo người phạm, hoặc thấy người phạm, con vui mừng theo. Bao nhiêu tội chướng của con gây ra, hoặc có che giấu, hoặc không che giấu, đáng đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cùng các ác thú, chốn biên địa, hạng hạ tiện, kẻ khốn cùng. Những tội chướng đáng đọa vào các nơi khổ báo như thế, nay con đều sám hối. (1 tiếng chuông)
Nay, chư Phật nên chứng biết cho con. Con lại đối trước chư Phật, tác bạch rằng: “ Hoặc đời này của con, hoặc đời khác của con đã từng bố thí, hoặc giữ giới trong sạch, nhẫn đến thí cho chim muông một vắt cơm, hoặc đã tu hạnh thanh tịnh có bao nhiêu căn lành, thành tựu chúng sanh có bao nhiêu căn lành, tu hành Đạo Bồ Đề có bao nhiêu căn lành, cho đến đã từng phát tâm vô thượng Phật trí có bao nhiêu căn lành, tất cả căn lành đó, con đều hồi hướng  về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác”.
Bao tội đều sám hối, các phước trọn vui theo, và công đức thỉnh Phật, cầu nên trí vô thượng. Khứ , lai, hiện tại Phật, hơn tất cả chúng sanh, công đức không thể lường, con nay xin đảnh lễ:
Trong bao nhiêu mười phương cõi nước
Cả ba đời các Đức Như Lai
Ba nghiệp thanh tịnh hôm nay
Chúng con đảnh lễ, xin Ngài chứng minh. (1 tiếng chuông)
Sức oai thần Phổ Hiền hạnh nguyện
Trước Như Lai khắp hiện tự thân
Mỗi thân lại hiện trần thân
Thân thân lễ khắp sát trần Thế Tôn.
Trong một trần có trần số Phật
Đều thật là các bậc Thượng Nhơn
Khắp cùng pháp giới xa gần
Kính tin chư Phật, muôn phần vinh hoa.
Biển âm thanh đều hòa trọn vận
Diệu ngôn từ vô tận khắp vang
Vị lai muôn kiếp trăm ngàn
Ngợi khen Phật đức, phước càng thâm sâu. (1 tiếng chuông)
Tràng hoa đẹp rất xinh thơm ngát
Cùng hương xoa, kỹ nhạc lộng tràng
Bao nhiêu đồ tốt trang hoàng
Cúng dường chư Phật, con toàn kính dâng.
Y tối thắng cùng hương tối thắng
Với đuốc đèn, hương phấn, hương xông
Đều nhiều như Diệu Cao Phong
Cúng dường chư Phật, con đồng dâng lên.
Tâm thắng giải mênh mông con dụng
Phật ba đời thảy cũng tin kiên
Con nương hạnh nguyện Phổ Hiền
Cúng dường chư Phật khắp miền Lạc Bang.
Các tội ác xưa con lầm lỡ
Do tham sân muôn thuở gây nên
Từ thân miệng ý phát lên
Nay con sám hối báo đền lỗi xưa. (1 tiếng chuông)
Chúng sanh khắp mười phương các cõi
Hàng Nhị Thừa “Có Học Cùng Không”
Như Lai Bồ Tát rất đông
Có bao công đức con đồng vui theo.
Trong mười phương có người chứng quả
Quả ban đầu là quả Bồ Đề
Con xin cung kính thỉnh về
Xiễn dương chánh Pháp Bồ Đề cao siêu.
Các Đức Phật muốn toan nhập diệt
Con chí thành mải miết ân cần
Cúi xin ở mãi kiếp trần
Để cho lợi lạc khắp quần sanh linh. (1 tiếng chuông)
Bao nhiêu phước cúng dường bái lạy
Thỉnh Phật cùng ở tại thế gian
Vui mừng sám hối được an
Con cầu Phật Đạo huy hoàng nơi nơi.
Nguyện đem công đức có từ lâu
Pháp giới vô biên, con nguyện cầu
Tánh, tướng Tam Bảo nhiệm mầu
Hải Ấn Tam Muội dung vào Tục, Chơn.
Biển công đức không sao kể xiết
Nay, con nguyền tha thiết cầu cho:
Chúng sanh nghiệp chướng quá to
Thảy đều dứt sạch buồn lo miên trường.
Trí huệ khắp sáng soi muôn cõi
Độ chúng sanh chẳng nệ mỏi mòn
Dù cho thế giới không còn
Nguyện con vẫn giữ sắc son đời đời.
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
 
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.
“Này Ông Xá Lợi Phất, “tướng không của mọi pháp” không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong “chân không”, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư”.
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”.
(1 tiếng chuông)
TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẩm, a bát ra để hạ đa xá đa nẳng nẩm, đát điệt tha. Án khư khư, khư hê, khư hê, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc xá, để sắc xá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ ta bà ha. ( 3 lần)
 
SÁM HỐI PHÁT NGUYỆN
Đệ tử kính lạy đức Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, Mười Phương Chư Phật, vô lượng Phật Pháp, cùng Thánh Hiền Tăng. Đệ tử lâu đời lâu kiếp nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc. Ngày nay nhờ Phật biết sự lổi lầm, thành tâm sám hối. Thề tránh điều dữ, nguyện làm việc lành. Ngưỡng trông ơn Phật, từ bi gia hộ. Thân không tật bệnh, tâm không phiền não, hằng ngày an vui tu tập, phép Phật nhiệm mầu, để mông ra khỏi luân hồi, minh tâm kiến tánh, trí huệ sáng suốt, thần thông tự tại, đặng cứu độ các bậc tôn trưởng, cha mẹ anh em, thân bằng quyến thuộc, cùng tất cả chúng sanh, đều trọn thành Phật Đạo. (1 tiếng chuông)
 
KHEN NGỢI PHẬT DI ĐÀ
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh.
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành,
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật. (3 xâu chuỗi)
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)
 
HỒI HƯỚNG
Sám hối công đức, hạnh nhiệm mầu,
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu,
Tất cả chúng sanh trong pháp giới,
Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan,
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời,
Cầu cho con được đời đời,
Hành Bồ Tát đạo cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây phương cõi Lạc bang,
Sen vàng chín phẩm là cha mẹ mình,
Hoa nở thấy Phật quả viên thành,
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành,
Đệ tử hướng tâm thành,
Cầu cho khắp chúng sanh,
Đều chứng thành Phật quả.
 
LẠI NGUYỆN
Nam Mô A Di Đà Phật!
Xe tam thừa lộng lẫy, thuyền bát nhã thênh thang, sáu đường dốc ngược đèo ngang, ba cõi sông mê lặn hụp. Thảm nỗi oan khiên, lắm lúc hương linh không đủ phước vãng sanh.
Ngưỡng nguyện Bổn Sư Vô Lượng Thọ, Quan Âm Thế Chí Thánh Hiền Tăng, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát thùy từ phóng quang tiếp độ chư vong linh, hương . . . nay được an lành, nghe kinh niệm Phật, vượt qua bể khổ, thoát khỏi Ta Bà, nhất tâm niệm Phật vãng sanh Cực Lạc, sen vàng chín phẩm nở hoa Pháp Thân A Di Đà phóng quang tiếp độ.
 
NGUYỆN KHẮP PHÁP GIỚI
Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, tình dữ vô tình tề thành Phật đạo. (1 tiếng chuông)
 
QUY Y TAM BẢO
 
- Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)
- Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển.  (1 lạy)
- Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)
 
 
 
 

NGHI THỨC CẦU SIÊU – TỊNH ĐỘ
 
NIỆM HƯƠNG LỄ BÁI
(Thắp đèn, đốt trầm xong, toàn thể đứng ngay ngắn, chắp tay để ngang ngực mật niệm)
TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN
Úm lam tóa xa. (3 lần)
TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN
Úm ta phạ bà phạ, truật đà, ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
(Vị chủ lễ  thắp 3 cây hương,quỳ ngay thẳng, cầm hương ngang trán niệm lớn bài cúng hương).
CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT
Nguyện đem lòng thành kính,
Gởi theo đám mây hương,
Phảng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo,
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tánh làm lành,
Cùng pháp giới chúng sanh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
                  Chóng quay về bờ Giác. (1 tiếng chuông)
 
CẦU NGUYỆN
Nam Mô A Di Đà Phật!
Hôm nay ngày . . . tháng . . . năm . . .; tại địa chỉ . . . đệ tử chúng con tên . . ., pháp danh là . . . thiết lập đàn tràng cầu siêu hương linh tên . . ., pháp danh . . . , . . .tuổi, sanh ngày . . ., mất ngày . . . .
Chúng con phụng thỉnh Mười Phương Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng, phụng thỉnh Tà Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, phụng thỉnh Tây Phương Giáo Chủ Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát tiếp độ hương linh tên . . ., pháp danh . . . nay được an lành, nghe kinh niệm Phật, vượt qua bể khổ, thoát khỏi Ta Bà, phát nguyện vãng sanh, nhất tâm niệm Phật trực vãng Tây Phương Cực Lạc. (1 tiếng chuông)
                  NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT. (3 lần)
 
KHEN NGỢI PHẬT
(Đứng dậy, cắm hương lên lư rồi vị chủ lễ chắp tay đứng thẳng và niệm)
Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loại,
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
Ức kiếp cũng không cùng. (1 tiếng chuông)
 
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng, đạo cảm thông không thể nghĩ bàn, lưới đế châu ví đạo tràng, mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời, trước bảo tọa thân con ảnh hiện, cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (1 tiếng chuông)
 
ĐẢNH LỄ
(Vị chủ lễ xá 3 xá rồi niệm lớn)
Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường  trú Tam Bảo. (đồng lạy 1 lạy)
       Nam mô Tà Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (đồng lạy 1 lạy)
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (đồng lạy 1 lạy)
 
TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT
Lư hương vừa ngún hương trầm
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, 1 tiếng  chuông)
 
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a  bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)
 
KHAI THỊ
Hữu sanh, hữu tử, hửu luân hồi
Vô Sanh, vô tử, vô khứ lai
Sanh tử khứ lai đô thị mộng
Bất lao đàn trực đáo Tây Phương.
Nầy chư vong linh lắng nghe! Đức Phật Thích Ca có dạy rằng, hễ có sanh là ắt có tử. Đời người ai sanh ra, cũng không thoát khỏi cái khổ sanh, già, bệnh và chết. Vì thân nầy do Tứ Đại “đất, nước, gió, lửa” tạo thành, nên thân nầy giả tạm, rồi phải trả về cho Tứ Đại. Do vậy, sau khi chết đi, con người phải thay hình đổi dạng sang kiếp khác trong ba nẽo sáu đường. Đó là Trời, Người, A Tu La, Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sanh.  Do đó, mới nói có sanh tử nên mới có luân hồi. Nếu không có sanh tử thì cũng không có quá khứ, hiện tại và vị lai luôn. Vì chúng sanh tham sân si mà tạo vô lượng nghiệp thiện ác, nên phải bị chúng nó lôi kéo trong lục đạo luân hồi, đời đời kiếp kiếp không biết bao giờ mới có thể ra khỏi được. Bậc Đại Giác thấy sanh tử luân hồi như mộng không thật, chỉ vì chúng sanh mê chấp lầm mà thôi. Đức Phật Thích Ca dạy rằng nếu chúng sanh nào muốn thoát luân hồi khổ, thì nhờ bi nguyện và sự tiếp dẫn của Phật A Di Đà.
Muốn được như vậy thì phải nhứt tâm niệm Phật hiệu Di Đà. Ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, thì cùng Phật vãng Tây Phương, nên mới nói “chẳng nhọc khẩy móng là thẳng tới Tây Phương”. Vậy, chư vong linh hãy y giáo phụng hành nhứt tâm niệm Phật.
Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật! (3 lần)
Đại Từ Đại Bi thương chúng sinh
Đại Hỷ Đại Xả cứu muôn loài
Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm
Đệ tử chí tâm quy mạng lễ.
Nam mô Như Lai Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn.
Nam mô Đa Bảo Như Lai.
Nam mô Bảo Thắng Như Lai.
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai.
Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai.
Nam mô Ly Bố Úy Như Lai.
Nam mô Cam Lồ Vương Như Lai.
Nam mô A Di Đà Như Lai.
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo. (3 lần)
Nầy chư vong linh lắng nghe! Nay tôi pháp danh là . . . làm lễ quy y Tam Bảo cho quý vị, để thoát kiếp sanh tử luân hồi.
Quý vị hãy thành tâm hướng về Tam Bảo, tôi nói sao quý vị lập lại như vậy.
 
QUY Y LINH VÀ SÁM HỐI
Hương linh quy y Phật
Hương linh quy y Pháp
Hương linh quy y Tăng. (3 lần)
Hương linh quy y Phật
Đấng phước trí vẹn toàn.
Hương linh quy y Pháp
Đạo thoát ly tham dục.
Hương linh quy y Tăng
Bậc tu hành cao tột.       (3 lần)
 
Hương linh quy y Phật, nguyện đời đời kiếp kiếp, không quy y thiên, thần, quỷ, vật.
Hương linh quy y Pháp, nguyện đời đời kiếp kiếp, không quy y ngoại đạo tà giáo.
Hương linh quy y Tăng, nguyện đời đời kiếp kiếp, không quy y tổn hữu ác đảng. (3 lần)
Hương linh quy y Phật, khỏi đọa địa ngục.
Hương linh quy y Pháp, khỏi đọa ngạ quỷ.
Hương linh quy y Tăng, khỏi đọa bàng sanh. (3 lần)
Hương linh quy y Phật rồi
Hương linh quy y Pháp rồi
Hương linh quy y Tăng rồi. (3 lần)
Hương linh vốn tạo các vọng nghiệp
Đều do vô thỉ tham, sân, si
Từ thân miệng ý phát sinh ra
Hương linh thảy đều xin sám hối.
                  (Một mình vị chủ lễ niệm lớn)
Nguyện tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo, tiếp độ hương linh.
(Đại chúng đồng hòa theo)
                  Vãng sanh Cực Lạc quốc.
Hương linh vốn tạo các vọng nghiệp
Đều do vô thỉ, tham, sân, si
Từ thân miệng ý phát sinh ra
Hương linh thảy đều xin sám hối.
Nguyện Ta Bà Giáo Chủ Đại Từ Đại Bi Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Vương  Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát tiếp độ hương linh.
(Đại chúng đồng hòa theo)
Vãng sanh Cực Lạc quốc.
Hương linh vốn tạo các vọng nghiệp
Đều do vô thỉ tham, sân, si
Từ thân miệng ý phát sinh ra
Hương linh thảy đều xin sám hối.
Nguyện Tây Phương Giáo Chủ Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Đại Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát tiếp độ hương linh, vãng sinh Cực Lạc quốc.
(Đại chúng đồng hòa theo)
Vãng sanh Cực Lạc quốc.
Tội từ tâm khởi, đem tâm sám,
Tâm được tịnh rồi, tội liền tiêu.
Tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không,
Ấy mới thật đáy lòng chơn sám hối.
Nam mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)
 
  • Chủ lễ xướng và sái tịnh:
Quan Âm Bồ Tát rất nhiệm mầu
Thanh tịnh trang nghiêm nhiều kiếp tu
Khắp xứ người cầu đều cảm ứng
Biển trần qua lại độ quần mê.
Nam mô Đại Từ Đại Bi Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)
 
THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà la ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha dà đế, chơn lăng càn đế, ta bà ha. (3 lần)
 

CHÚ VÃNG SANH
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị độ bà tì, a di rị đa tất đam bà tì, a di rị đa tì ca lan đế, a di rị đa tì ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.(3 lần)
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần, 1 tiếng chuông)
 
KỆ KHAI KINH
Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát. (3 lần, 1 tiếng chuông)
 
TỤNG KINH DI ĐÀ
( Hán dịch, nhà Dao Tần, ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch)
 

PHẬT NÓI KINH A DI ĐÀ

1 . ĐẠI HỘI Ở TỊNH XÁ KỲ VIÊN
Ta nghe như vầy: Vào một thuở nọ, Đức Phật ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc nước Xá Vệ cùng với một nghìn hai trăm năm  mươi vị đại Tỳ Kheo đều là bậc  A La Hán, như là: trưởng lão Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Ma Ha Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu La, A Nậu Lâu Đà, những vị đại đệ tử như thế và hàng đại Bồ Tát: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, các vị đại Bồ Tát như thế, với vô lượng chư thiên như ông Thích Đề Hoàn nhơn vân vân, toàn thể đều đến dự hội.
2 . GIỚI THIỆU PHẬT DI ĐÀ VÀ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC
Bấy giờ, Đức Phật bảo ngài trưởng lão Xá Lợi Phất: “ Từ đây qua phương tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc. Trong thế giới đó, có Đức Phật hiệu là A Di Đà, hiện nay đương nói pháp. “ Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực Lạc?
Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất ! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy tầng lan can, bảy tầng mành lưới, bảy tầng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc.
3 . Y BÁO TRANG NGHIÊM
Xá Lợi Phất ! Lại trong cõi Cực Lạc, có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy đủ nước tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm đường ở bốn bên ao; trên thềm đường còn có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não. Trong ao, có hoa sen lớn như bánh xe, hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sáng trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch.
Xá Lợi Phất ! Cõi nước Cực Lạc trọn nên công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của Đức Phật đó, thường trỗi nhạc trời, đất bằng vàng rồng, ngày đêm sáu thời rưới hoa Trời Mạn Đà La. Chúng sanh trong cõi đó sáng sớm thường mang hoa tốt cúng dường mười muôn ức Đức Phật  ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc, ăn cơm xong đi kinh hành.
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc trọn nên công đức trang nghiêm dường ấy.
4 . PHƯƠNG TIỆN ĐỘ SANH
Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có những giống chim màu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Hạc trắng, con Công, con Két, con Cò, và chim tiếng hay, cùng chim chung mình hai đầu .v.v.; những giống chim đó, ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã. Tiếng chim đó diễn nói pháp mầu như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần, vân vân. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng!  Xá Lợi Phất!  Ông chớ  cho rằng những giống chim đó do tội báo sanh ra. Vì sao? Vì cõi của Đức Phật đó không có ba đường dữ, không có tên ba đường dữ huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó do Đức Phật A Di Đà muốn cho tiếng Pháp được tuyên lưu mà biến hóa ra.
Xá Lợi Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ lung lay các hàng cây báu và mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, như trăm nghìn thứ nhạc đồng hòa một lúc. Người nghe tiếng đó, đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp,  niệm Tăng.
Xá Lợi Phất! Cõi đức Phật A Di Đà trọn nên công đức trang nghiêm dường ấy!
5 . Ý NGHĨA DANH HIỆU PHẬT A DI ĐÀ
Xá  Lợi Phất! Ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?
Xá Lợi Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi sáng các nước trong mười phương không bị chướng ngại, vì thế nên hiệu là A Di Đà.
Xá Lợi Phất! Đức Phật đó và nhân dân của ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.
Xá Lợi Phất! Đức Phật A Di Đà từ ngày thành Phật đến nay đã được mười kiếp.
6 . THÁNH CHÚNG Ở CỰC LẠC.
Xá Lợi Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thinh Văn đệ tử đều là bậc A La Hán, chẳng phải tính đếm mà biết được, hàng Bồ Tát cũng đông như thế. Xá Lợi Phất! Cõi nước của đức Phật đó trọn nên công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Những chúng sanh trong cõi Cực Lạc đều là bậc bất thối chuyển. Trong đó, có rất nhiều vị nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a tăng kỳ để nói thôi!
7 . PHƯƠNG PHÁP TU TẬP VÃNG SANH.
Xá Lợi Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phát nguyện, nguyện sanh nước đó. Vì sao? Vì được câu hội một chỗ với các bậc thượng thiện nhơn. Xá Lợi Phất! Chẳng có thể  dùng chút ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi đó.
Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam, tín nữ nghe nói đức Phật A Di Đà, trì niệm danh hiệu của đức Phật đó, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn, đến lúc lâm chung, đức Phật A Di Đà cùng hàng thánh chúng hiện thân trước người đó. Lúc chết, tâm thần không điên đảo, người đó liền được vãng sanh về cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.
Xá Lợi Phất! Nếu có chúng sanh nào, nghe những lời lợi ích trên đây, phải nên phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc.

8 . CHƯ PHẬT Ở SÁU PHƯƠNG TÁN THÁN VÀ HỘ NIỆM.
Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích không thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà.
Phương Đông, cũng có A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật, hằng hà sa số đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên, nói lời thành thật rằng: “ Chúng sanh các ngươi phải nên kính tín và khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của kinh này, chư Phật thường hộ niệm”.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Nam, có Nhựt Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật, hằng hà sa số đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên, nói lời thành thật rằng: “ Chúng sanh các ngươi phải nên kính tín và khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của kinh này, chư Phật thường hộ niệm”.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Tây, có Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại Minh Phật, Bửu Tướng Phật,Tịnh Quang Phật, hằng hà sa số đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên, nói lời thành thật rằng: “ Chúng sanh các ngươi phải nên kính tín và khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của kinh này, chư Phật thường hộ niệm”.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Bắc, có Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan Trở Phật, Nhựt Sanh Phật, Võng Minh Phật,  hằng hà sa số đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên, nói lời thành thật rằng: “ Chúng sanh các ngươi phải nên kính tín và khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của kinh này, chư Phật thường hộ niệm”.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Dưới, có Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì Pháp Phật, hằng hà sa số đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên, nói lời thành thật rằng: “ Chúng sanh các ngươi phải nên kính tín và khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của kinh này, chư Phật thường hộ niệm”.
Xá Lợi Phất! Thế giới phương Trên, có Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bửu Hoa Nghiêm Thân Phật, Ta La  Thọ Vương Phật, Bửu Hoa Đức Phật, Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, hằng hà sa số đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên, nói lời thành thật rằng: “ Chúng sanh các ngươi phải nên kính tín và khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của kinh này, chư Phật thường hộ niệm”.
Xá Lợi Phất! Ý của ông nghĩ thế nào, vì sao chư Phật thường khen ngợi kinh này?
Xá Lợi Phất! Nếu có người nào nghe kinh này mà thọ trì và nghe danh hiệu của các đức Phật thời người ấy được chư Phật ủng hộ và được giác ngộ giải thoát. Xá Lợi Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của ta và của các đức Phật nói.
Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, và sẽ phát nguyện sanh về cõi của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Xá Lợi Phất! Thiện nam tín nữ nào có lòng tin, phải nên phát nguyện sanh về cõi kia.
 
9 . CHƯ PHẬT KHEN NGỢI SỰ HOẰNG PHÁP CỦA PHẬT THÍCH CA.
Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay, ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật và chư Phật cũng ngợi khen công đức không thể nghĩ bàn của ta, như: “Đức Phật Thích Ca Mâu Ni làm được việc rất khó khăn, rất ít có ngay trong cõi Ta Bà đầy năm ác trược: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược, Ngài chứng được ngôi vô thượng chánh đẳng chánh giác. Vì các chúng sanh, Ngài nói pháp này, tất cả thế gian đều khó tin.
Xá Lợi Phất! Phải biết rằng trong đời ác năm trược, thực hành việc khó này, Ta thành bậc vô thượng chánh giác. Thật khó thay! Vì tất cả thế gian, ta nói pháp khó tin này.
Đức Phật nói kinh này xong, Ngài  Xá Lợi Phất cùng các vị Tỳ Kheo, tất cả trong đời , Trời , Người, A Tu La vân vân, nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận, đảnh lễ và lui ra. (1 tiếng chuông)

KHEN NGỢI CÔNG ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ

                  Giáo chủ cõi Tây Phương
                  Đức Phật A Di Đà
                  Phát bốn mươi tám nguyện
                  Hướng dẫn đường chúng sanh,
                  Đài sen rực rỡ sẵn sàng
                  Quán Âm, Thế Chí hai hàng tiếp nghinh
Nam Mô Tịnh Độ Phẩm Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, 1 tiếng chuông)
TỤNG BÁT NHÃ
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH.
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
       Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế.
Này Ông Xá Lợi Phất, tướng không của mọi pháp, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong “chân không”, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư.
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
 
CHÚ VÃNG SANH
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị đô bà tì, a di rị đa tất đam bà tì, a di rị đa tì ca lan đế, a di rị đa tì ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (3 lần, 1 tiếng chuông )
 
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ
1.  Nam mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, Vô Lượng Quang Như Lai.
2. Nam mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, Vô Biên Quang Như Lai.
3. Nam mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, Vô Ngại Quang Như Lai.
4. Nam mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, Vô Đối Quang Như Lai.
5. Nam mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, Diệm Vương Quang Như Lai.
6. Nam mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, Thanh Tịnh Quang Như Lai.
7. Nam mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, Hoan Hỷ Quang Như Lai.
8. Nam mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, Trí Huệ Quang Như Lai.
9. Nam mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, Nan Tư Quang Như Lai.
10. Nam mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, Bất Đoạn Quang Như Lai.
11. Nam mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, Vô Xưng Quang Như Lai.
12. Nam mô An Dưỡng Quốc, Cực Lạc Giới Di Đà Hải Hội, Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai.
 
SÁM HỐI
Con xưa tạo các vọng nghiệp,
Đều do vô thỉ tham, sân, si,
Từ thân miệng ý phát sinh ra,
Nay đối trước Phật, con xin sám hối.
Chúng sanh không số lượng, Thệ nguyện đều độ hết,
Phiền não không cùng tận, Thề nguyện đều dứt sạch,
Pháp môn không kể xiết, thề nguyện đều tu học,
Phật đạo không gì hơn, thề nguyện trọn viên thành
Nam Mô Phổ Hiền Vương Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)
 
SÁM TÂY PHƯƠNG
Ba đời mười phương Phật, A Di Đà bậc nhứt, chín phẩm độ chúng sinh, oai đức không cùng cực. Con nay vì Hương Linh, sám hối ba nghiệp tội, phàm được bao phước thiện, chí tâm nguyện hồi hướng. Nguyện cùng người niệm Phật, vãng sinh nước Cực Lạc, thấy Phật ngộ pháp tánh, phát tâm Đại Bồ Đề, đoạn vô biên phiền não, tu vô lượng pháp môn, thệ nguyện độ chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo.
 
KHEN NGỢI PHẬT DI ĐÀ
 
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh.
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong.
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành,
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật!
Nam mô A Di Đà Phật. (3 xâu chuỗi)
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát. (3 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (3 lần)
TÁN LỄ
Tán lễ Tây Phương Cực Lạc thanh lương
Sen vàng chín phẩm ngát hương
Cây báu bảy hàng, Nhạc trời reo vang
A Di Đà Phật phóng ánh hào quang
Hóa độ chúng sanh vô lượng
Đến bờ giải thoát an vui
Hiện tiền đệ tử xưng dương
Đồng sanh An Dưỡng.
 
KHUYẾN TU
Ngày nay đã qua, mạng sống giảm dần,
Như cá cạn nước, nào có vui chi.
Đại chúng nên cần tinh tấn, như cứu lửa cháy đầu.
Chỉ niệm vô thường, cẩn thận chớ có buông lung.
 
HỒI HƯỚNG
Cầu siêu công đức, hạnh nhiệm mầu,
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu,
Tất cả chúng sanh trong pháp giới,
Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan,
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời,
Cầu cho con được đời đời,
Hành Bồ Tát đạo cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây phương cõi Lạc bang,
Sen vàng chín phẩm là cha mẹ mình,
Hoa nở thấy Phật quả viên thành,
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành,
Đệ tử hướng tâm thành,
Cầu cho khắp chúng sanh,
Đều chứng thành Phật quả.
 
LẠI NGUYỆN
Nam Mô A Di Đà Phật!
Xe tam thừa lộng lẫy, thuyền bát nhã thênh thang, sáu đường dốc ngược đèo ngang, ba cõi sông mê lặn hụp. Thảm nỗi oan khiên, lắm lúc hương linh không đủ phước vãng sanh.
Ngưỡng nguyện Bổn Sư Vô Lượng Thọ, Quan Âm Thế Chí Thánh Hiền Tăng, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát thùy từ phóng quang tiếp độ chư vong linh, hương linh . . . nay được an lành, nghe kinh niệm Phật, vượt qua bể khổ, thoát khỏi Ta Bà, nhất tâm niệm Phật vãng sanh Cực Lạc, sen vàng chín phẩm nở hoa Pháp Thân A Di Đà phóng quang tiếp độ.
 
NGUYỆN KHẮP PHÁP GIỚI
Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, tình dữ vô tình tề thành Phật đạo.
 
QUY Y TAM BẢO
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.(1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)
 

NGHI THỨC LỄ VU LAN

(Kinh Vu Lan Bồn (Ullambana Sùtra)

 GỒM CÓ:

* Chú tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
* Cúng Hương
* Cầu Nguyện
* Khen Ngợi Phật
* Quán Tưởng Phật
* Đảnh Lễ
* Tán Hương cúng Phật
* Chú Đại Bi
* Kệ Khai Kinh
* Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu
*Kinh Vu Lan Bồn
* Khen Ngợi Đức Mục Kiền Liên
* Kinh Bát Nhã Ba La Mật
* Chú vãng Sanh
*Niệm Phật
* Sám Vu Lan
* Hồi Hướng
* Phục Nguyện
* Tam Quy

MỤC ĐÍCH HÀNH TRÌ: Tụng niệm trong mùa Vu Lan, nhớ lại công ân sanh thành dưỡng dục của cha mẹ, và gương hiếu hạnh của Tôn giả Mục Kiền Liên. Khi tụng kinh, Phật tử nên chí thành cầu chư Phật và Hiền Thành Tăng từ bi gia hộ cho cửu huyền thất tổ, đa sanh phụ mẫu, lục thân quyến thuộc vân vân, được sớm siêu thăng Phật quốc.

NGHI THỨC LỄ VU LAN

(Thắp đèn đốt hương đứng ngay ngắn, chắp tay nganh ngực, chủ lễ mật niệm).

CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI

Án lam xoa ha. (3 lần)

CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP

Án ta phạ bà phạ,truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

CÚNG HƯƠNG

(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán, chủ lễ niệm bài cúng hương)
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chống quay về Bờ Giác.
 

CẦU NGUYỆN

Hôm nay, là ngày chư Tăng xuất hạ, đem đức lành chú nguyện chúng sanh, chúng con một dạ chí thành, thiết lễ hương hoa cúng dường và trì tụng kinh chú, xin đem công đức nầy, ngưỡng nguyện Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, cùng các vị Bồ Tát, tịnh đức chúng Tăng từ bi gia hộ cho hương linh Phật tử:…, cùng tất cả chúng sanh, sớm rõ đường lành, thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu thăng Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức cao dày, xót thương tiếp độ.
Nam mô Thập Phương Thường Trú Tam bảo tác đại chứng minh. (3 lần, 1 tiếng chuông)

KHEN NGỢI PHẬT

Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loài
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)

QUÁN TƯỞNG PHẬT

Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười  phương Phật hiện hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông , xá 1 xá)

ĐẢNH LỄ

       Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo.     (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
       Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật,Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
       Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện  Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)

TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT

Lư hương vừa ngún hương trầm,
Khói hương ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, 1 tiếng chuông)

CHÚ ĐẠI BI

Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
 (3 lần, 1 tiếng chuông)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm  Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng,  tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa, phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô tô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ , di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha.Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (1 tiếng chuông)

KỆ KHAI KINH

Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng,
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha Tát.
( 3 lần, 1 tiếng chuông)

PHẬT NÓI KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU

Một thuở nọ, Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn
Lại cũng có các hàng Bồ Tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường.
Bây giờ, Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành
Đến giữa đường, rành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng.
Đức A Nan tủi lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?
Vội vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ Phụ ba phương, bốn loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: trong các môn đồ
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công
Bởi chưa biết đục trong chưa rõ
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu: (1 tiếng chuông)
Đống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sinh
Luân hồi sinh tử, tử sinh
Lục thân đời trước thi hài còn đây
Ta lễ bái kính người tiền bối
Và ngậm ngùi nhớ tới kiếp xưa
Đống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi
Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam
Để cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng.
Đức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai
Ngài bèn xin Phật chỉ bày
Khó lòng chọn lựa gái trai lúc này
Còn sinh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh
Đến khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy khó nhìn khó phân
Phật mới bảo A Nan nên biết:  (1 tiếng chuông)
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Đàn ông xương trắng nặng quằng
Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc, bốn đấu sữa hòa nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân?
Thế Tôn mới giảng ân cần:
Vì ngươi ta sẽ phân trần, lắng nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con mười tháng cưu mang
Tháng đầu thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chân lông
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn.
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng, đạp quấy lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau, sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sinh sản muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc, được vàng.
Thế Tôn lại bảo A Nan:
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Điều thứ nhứt - giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường chu đáo mọi bề
Thứ hai -  sinh đẻ gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần.
Điều thứ ba -  thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay.
Thứ tư - ăn đắng nuốt cay
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con.
Điều thứ năm - lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con.
Thứ sáu - sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê.
Điều thứ bảy - không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền.
Thứ tám - chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền, mẹ lo.
Điều thứ chín - miễn con sung sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam, bị cầm.
Điều thứ mười - chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.
Phật lại bảo, A Nan nên biết: (1 tiếng chuông)
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
Chẳng kính mến quên ân trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mặc giao
Những hạng người ấy đời nào nên thân.
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy.
Khi sinh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sinh thập tử nhiều bề gian nan.
Con còn nhỏ phải lo săn sóc
Ăn đắng, cay, bùi, ngọt phần con
Phải tắm phải giặt rửa trôn
Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì.
Nằm phía ướt con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Con đi học mở thông trí tuệ
Dựng vợ chồng cho dễ làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi.
Con ốm đau tức thì lo chạy
Dầu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm.
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn nầy
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ, lại bày ngỗ ngang.
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khinh trưởng huynh, nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ lễ nghi chẳng tường.
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chống báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên.
Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo thói hung hăng
Đã không nhẫn nhịn, lại càng làm hung.
Bỏ bạn lành, theo cùng chúng dữ
Nết tập quen, làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ huyênh hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người.
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân, tìm kế sinh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công .
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ, vì con
Quên cha, quên mẹ tình thâm
Quê hương xứ sở lâu năm không về.
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hí mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài.
Theo trộm cướp, hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù ngục phải vương
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng, bỏ thân ngoài đồng.
Hay tin dữ bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bịnh đui mù vấn vương
Hoặc bịnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỉ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mãi miết theo đường bất chính
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khang
Làm cho cha mẹ than van
Sinh con bất hiếu phải mang tiếng đời.
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thốn thiếu mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng, bỏ liều chẳng thương
Phận con gái còn nương cha mẹ
Còn có lòng hiếu để thuận hòa
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai, dễ khiến hơn là nam nhi
Song đến lúc, tùng phu xuất giá
Lo bên chồng chẳng sá bên mình
Trước còn lai vãng đến thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà.
Quên dưỡng dục song thân ân trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay.
Nếu mẹ cha la rầy quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiên
Đến khi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than.
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Tất cả đại chúng lòng càng thảm thay.
Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Đập vào mình, vào mũi, vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân
Đến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng:
Bọn ta quả thật tội nhân
Xưa nay chẳng rõ, không hơn người mù.
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu.
Trước Phật tiền ai cầu trần tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thâm ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình?
Phật bèn dùng phạm thinh sáu món
Phân tỏ cùng đại chúng lóng nghe
Ân cha, nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu.
Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu Di
Đến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa.
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân nầy
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng.
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu.
Ví có người cầm dao thiệt bén
Mổ bụng ra rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng.
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Đâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền.
Ví có người vì ân dưỡng dục
Tự treo mình, cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền.
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan, thịt nát chẳng phiền
Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Đến trăm ngàn kiếp chưa ngang ơn nầy.
Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng
Giọt lệ tràn khó nỗi cầm ngăn
Đồng thanh bạch với Phật rằng
Làm sao trả đặng thâm ân song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử: (1 tiếng chuông)
Phải lắng nghe ta chỉ sau nầy
Chúng ngươi muốn đáp ơn dầy
Phải nên biên chép kinh đây lưu truyền.
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa
Cùng là tu phước, chẳng chừa món chi.
Rằm tháng Bảy là ngày Tự Tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của mình.
Phật tử phải cần chuyên trì giới
Pháp Tam Quy, ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Phải nên vâng giữ thi hành đừng sai.
Được như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhứt, thật là trọng thay.
Sau khi chết, bị đày vào ngục
Ngũ Vô Gián cũng gọi A Tỳ
Ngục nầy trong núi Thiết Vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề.
Trong ngục này hằng ngày lửa cháy
Đốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhân hành hình.
Một vá đủ cho người thọ khổ
Lột thịt da đau thấu tâm can
Lại còn chó sắt cắn gan
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhân.
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phồng thịt thau.
Móc bằng sắt thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ xuống như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể nát nhừ như tương.
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ bụng trâu cày lưỡi le.
Nếu chết được, chết liền rất đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm sống chết muôn lần
Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây.
Sự hành phạt tại A Tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành lời dạy, phân trần ở trên.
Nhứt là phải kinh nầy biên chép
Truyền bá ra cho khắp Đông Tây
Như ai chép một quyển nầy
Cũng bằng đặng thấy một vị Thế Tôn.
Nếu in đặng nghìn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Tùy theo phước báo lưu truyền
Chư Phật ủng hộ sở nguyền viên dung.
Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Nghe lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng.
Lại phát nguyện dù thân nầy nát
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho kéo lưỡi trâu cày
Đến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên.
Ví như bị trăm ngàn dao mác
Khắp thân nầy bằm nát như tương
Trải trăm ngàn kiếp khôn lường
Chúng con gìn giữ như phương thuốc mầu.
Đức A Nan âu sầu đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu kinh
Dễ bề truyền bá chúng sanh
Chuyên trì phúng tụng tu hành mai sau.
Phật mới bảo A Nan nên biết:
Quyển kinh nầy quả thiệt cao xa
Đặt tên “ BÁO HIẾU MẸ CHA”
Cùng là “ ÂN TRỌNG” thật là chơn kinh.
Các ngươi phải giữ gìn chu đáo
Để đời sau, y giáo phụng hành.
Sau khi, Phật dạy đành rành
Bốn hàng Phật tử tâm thành vui theo.
Cùng một lòng vâng lời Phật dạy
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Đồng nhau tựu lại Phật tiền
Nhất tâm đảnh lễ, rồi liền lui ra.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha tát. (3 lần,1 tiếng chuông)
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 

 

 

PHẬT NÓI KINH VU LAN BỒN

 
Một thuở nọ, Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Mục Liên mới đặng sáu thông
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn, dưới trên kiếm tìm.
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỉ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục Liên thấy vậy bi ai
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm.
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu
Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu
Thấy cơm mẹ rất lo âu
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giựt của bà
Cơm đưa chưa đến miệng đà
Hóa thành lửa đỏ, nuốt mà được đâu.
Thấy như vầy âu sầu thê thảm
Mục Kiền Liên bi thảm xót thương
Mau mau về chốn giảng đường
Bạch cùng Sư Phụ tìm phương giải nàn.
Phật mới bảo rõ ràng căn cội (1 tiếng chuông)
Rằng mẹ ngươi gốc tội kết sâu
Dầu ngươi thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể khấn cầu được đâu.
Lòng hiếu thảo của ngươi dầu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến Cửu Thiên
Cùng là các bực Thần kỳ
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng ba cõi sáu phương tụ tập
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi
Muốn cho cứu được mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng
Pháp cứu tế ta toan giảng nói
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kêu Mục thị đến gần
Truyền cho diệu pháp ân cần thiết thi:
Rằm tháng Bảy là ngày Tự Tứ (1 tiếng chuông)
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan  sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu.
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn trong sạch báu mầu
Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.
Chư Đại đức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ được siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Đặng nhờ phước lực tiêu khiên ách nàn.
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tụ hội về
Như người thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não chăm về thiền na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng
Hoặc người được lục thông tấn phát
Và những hàng Duyên Giác, Thinh Văn
Hoặc chư Bồ Tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh
Đều trì giới rất thanh, rất tịnh
Đạo đức dày chánh định chơn tâm
Tất cả các bực Thánh, Phàm
Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Để cúng dường Tự Tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn.
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên.
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng được bá niên thọ trường.
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung
Người thời tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu thân.
Phật dạy bảo mười phương Tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau nầy: (1 tiếng chuông)
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Định tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong định ý hành thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dưng
Khi thọ dụng, nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên cùng Bồ Tát chư Tăng
Đồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục Liên cũng hết khóc thương buồn rầu
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quỉ được tan
Mục Liên bạch với Phật rằng: (1 tiếng chuông)
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
Lại cũng nhờ oai thần Tam Bảo
Nếu không thời nạn khổ khó ra
Như sau Phật tử xuất gia
Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh
Độ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể được không?
Phật rằng: Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói, ngươi liền hỏi theo.
Thiện nam tử, Tỳ Kheo nam nữ
Cùng Quốc Vương, Thái Tử, Đại Thần
Tam Công, Tể Tướng, Bá Quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thế tình thâm
Đến rằm tháng Bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ, chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật Đà hoan hỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Đựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự tứ, chúng Tăng cúng dường
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thời
Lìa nơi ngạ quỷ, sanh về nhơn, thiên
Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng Bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền.
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu
Đệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử Thiền môn.
Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành.
Trước là trả nghĩa sanh thành
Sau là cứu vớt chúng sanh muôn loài. (1 tiếng chuông)

KHEN NGỢI ĐỨC MỤC KIỀN LIÊN

Mục Liên Tôn Giả
Thay Phật tuyên hành
Gậy vàng vừa gõ
Cửa ngục băng thanh
Tội nhơn giải thoát
Tịnh Độ hóa sinh
Phúc huệ mãi an lành.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát  Ma Ha Tát.                      (1 tiếng chuông)

MA HA  BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH.

Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế.
Này Ông Xá Lợi Phất, tướng không của mọi pháp không sanh,không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong chân không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư”.
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”. (1 tiếng chuông)

CHÚ VÃNG SANH

Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị đô bà tì, a di rị đa tất đam bà tì, a di rị đa tì ca lan đế, a di rị đa tì ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.

 

SÁM VU LAN

Đệ tử chúng con
Vâng lời Phật dạy
Ngày rằm tháng Bảy
Gặp hội Vu Lan
Phạm Vũ huy hoàng
Đốt hương đảnh lễ
Mười phương Tam thế
Phật, Pháp, Thánh, Hiền
Noi gương đức Mục Kiền Liên
Nguyện làm con thảo (1 tiếng chuông)
Lòng càng áo não
Nhớ nghĩa thân sanh
Con đến trưởng thành
Mẹ dày đau khổ
Ba năm nhũ bộ
Chín tháng cưu mang
Không ngớt lo toan
Quên ăn bỏ ngủ
Ấm lo đầy đủ
Cậy có công cha
Chẳng quản yếu già
Sanh nhai lam lũ
Quyết cùng hoàn vũ
Phấn đấu nuôi con
Giáo dục vuông tròn
Đem đường học đạo
Đệ tử ơn sâu chưa báo
Hổ phận kém hèn
Giờ này quỳ trước đài sen
Chí thành cung kính
Đạo tràng thanh tịnh
Tăng Bảo trang nghiêm
Hoặc thừa tự tứ
Hoặc hiện tham thiền
Đầy đủ thiện duyên
Dũ lòng lân mẫn
Hộ niệm cho:
Bảy kiếp cha mẹ chúng con
Đượm nhuần mưa Pháp
Còn tại thế:
Thân tâm yên ổn
Phát nguyện tu trì
Đã qua đời:
Ác đạo xa lìa
Chóng thành Phật quả
Ngưỡng mong các đức Như Lai
Khắp cõi hư không
Từ bi gia hộ. (1 tiếng chuông)

KHEN NGỢI PHẬT DI ĐÀ

A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật. (1 tiếng chuông)
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.

HỒI HƯỚNG

Tụng kinh công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát Đạo cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang
Chín phẩm sen vàng, nơi hóa sanh
Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.

LẠI NGUYỆN

(Chỉ chủ lễ phục nguyện)
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Tát Đại Chứng Minh. (1 tiếng chuông)
Xe Tam Thừa lộng lẫy, Thuyền Bát Nhã thênh thang, sáu đường dốc ngược đèo ngang, ba cõi sông mê lặn hụp, thảm nỗi oan khiên lắm lúc, hương linh không đủ phước vãng sanh. Nguyện hương linh:… nay được an lành, nghe kinh kệ siêu thăng Tịnh Độ, vượt qua bể khổ, thoát khỏi Ta Bà, sen vàng chín phẩm nở hoa, pháp thân hiện Di Đà thọ ký. Âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh, đồng thành Phật quả. (1 tiếng chuông , đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật

TAM QUY

Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 
 
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ

GỒM CÓ:

* Chú tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
* Cúng Hương
* Cầu Nguyện
* Khen Ngợi Phật
* Quán Tưởng Phật
* Đảnh Lễ
* Tán Dương Chi
* Chú Đại Bi
* Kệ Khai Kinh
* Kinh Dược Sư
* Chú Dược Sư Quán Đảnh
* Tụng Bát Nhã
* Niệm Phật
* Sám Dược Sư
* Hồi Hướng
* Phục Nguyện
* Tam quy.

MỤC ĐÍCH HÀNH TRÌ :

Cầu nguyện cho những người đau liệt giường liệt chiếu, hay những bệnh nan y, thuốc men không thể chữa trị, nếu gia đình người bệnh thành tâm tụng kinh nầy, và cầu nguyện Đức Dược Sư, bệnh nhân sẽ được khỏi. Hơn nữa, người hay chiêm bao thấy những cảnh tượng rùng rợn, hay bị bùa chú ếm đối vân vân, người đó thành tâm tụng Kinh Dược Sư, Ngài sẽ phò hộ cho.Vì nhiều điều lợi lạc vừa kể trên, nên kinh nầy thường được tụng vào mỗi đầu năm.
 
NGHI  THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
(Thắp đèn đốt hương đứng ngay ngắn, chắp tay nganh ngực, chủ lễ mật niệm).
 
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha. (3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
(Quỳ ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán, chủ lễ niệm bài cúng hương).
 
CÚNG HƯƠNG
Giới Hương, Định Hương, và Huệ Hương
Giải Thoát, Giải Thoát, Tri Kiến Hương
Sáng ngời, chiếu khắp mười phương
Hiện tiền Tam Bảo, Năm Hương cúng dường.      
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát.(3 lần, 1 tiếng chuông)
 
CẦU NGUYỆN
Hôm nay, đệ tử chúng con phụng trì di giáo Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, trì tụng Kinh dược Sư, xưng tán Hồng Danh, tu hành công đức, ngưỡng nguyện mười phương Tam bảo từ bi gia hộ cho (tên họ……), đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp  chướng tiêu trừ, thường được an lành, xa lìa khổ ách, cùng thảy chúng sanh, một thời đồng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. (1 tiếng chuông xá 1 xá)
 
TÁN THÁN PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loài
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận. (1 tiếng chuông, xá 1 xá)
 
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười  phương Phật hiện hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (1 tiếng chuông, xá 1 xá)
 
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện  Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
TÁN DƯƠNG CHI
Cành dương nước tịnh nhiệm mầu
Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau
Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh
Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn
Cam lồ rưới khắp trần gian
Lửa sân sứt sạch, sen vàng nở hoa.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, 1 tiếng chuông)
 
CHÚ ĐẠI BI
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm  Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dưng,  tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà,ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa, phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô tô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì , ta bà ha, Ma ra na ra, ta bà ha.Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (1 tiếng chuông)
 
KỆ KHAI KINH
Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Dược Sư Hải Hội Phật Bồ Tát. (3 lần)
 
PHẬT NÓI KINH DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI BỔN NGUYỆN CÔNG ĐỨC
 
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Bạt Già Phạm đi châu du giáo hóa các nước, đến thành Quãng Nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc Âm, cùng với tám ngàn vị đại Bí Sô, ba vạn sáu ngàn vị đại Bồ Tát, các hàng Quốc Vương, Đại Thần, Bà La Môn, các Hàng Cư Sĩ, Thiên Long Bát Bộ, Trời, Người, cả thảy đồng vây quanh Phật, cung kính thỉnh Ngài thuyết Pháp.(1 tiếng chuông)
Lúc bấy giờ, ông Mạn Thù Thất Lợi pháp vương tử nhờ oai thần của Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo bên hữu và gối bên mặt quì sát đất, chắp tay hướng về Phật và bạch rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn, cúi mong Ngài nói rõ những danh hiệu, những bổn nguyện rộng lớn, cùng những công đức thù thắng của chư Phật, để cho những người đang nghe Pháp, nghiệp chướng tiêu trừ, và để cho chúng hữu tình ở đời tượng pháp được nhiều lợi lạc về sau”.
Đức Thế Tôn khen Ông Mạn Thù Thất Lợi: “ Hay thay, mạn Thù Thất Lợi! Ngươi lấy lòng đại bi yêu cầu ta nói danh hiệu và bổn nguyện công đức của chư Phật, vì muốn cho chúng hữu tình khỏi bị nghiệp chướng ràng buộc, lợi ích an vui trong đời tượng pháp. Nay ngươi nên lóng nghe và suy nghĩ cho kỹ, ta sẽ vì Ông mà nói”.
Nầy Ông Mạn Thù Thất Lợi: “Ở phương Đông, cách đây hơn mười căn dà sa, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Đức giáo chủ cõi ấy hiệu là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạt Già Phạm.
Nầy Mạn Thù Thất lợi: “ Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, khi còn tu hạnh Bồ  Tát có phát mười hai nguyện lớn, khiến cho chúng hữu tình cầu chi được nấy”.(1 tiếng chuông)
Nguyện Thứ nhất: “Ta nguyện đời sau, khi chứng được quả vị Chánh Đẳng Chánh Giác, thân ta có hào quang sáng chói, chiếu khắp vô số thế giới, khiến cho chúng hữu tình đều có đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi tướng phụ như thân của Ta vậy”.
Nguyện Thứ hai: “Ta nguyện đời sau, khi đặng Đạo Bồ Đề, thân ta như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn, không có chút nhơ bợn, ánh quang minh chói lọi khắp nơi, công đức cao vòi vọi và an trú giữa từng nhật nguyệt. Chúng sanh trong cõi U minh đều nhờ ánh sáng ấy, tâm trí được mở mang, muốn đi đến chỗ nào để làm nên sự nghiệp, sẽ được như ý”.
Nguyện Thứ ba: “Ta nguyện đời sau, khi đặng Đạo Bồ Đề, dùng trí tuệ, và phương tiện vô lượng vô biên, độ cho chúng hữu tình, khiến mọi người có đủ các vật dụng, không ai phải chịu sự thiếu thốn”.
Nguyện Thứ tư: “Ta nguyện đời sau, khi đặng Đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình tu theo tà đạo, ta khiến họ quay về an trụ trong Đạo Bồ Đề. Hoặc có những người tu theo hạnh Thinh Văn, Độc Giác, dùng giáo lý Đại Thừa, ta giảng dạy cho họ”.
Nguyện Thứ năm: “Ta nguyện đời sau, khi đặng Đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình, tu hạnh thanh tịnh, theo giáo pháp của Ta, Ta sẽ giúp họ giữ được giới pháp hoàn toàn đầy đủ. Nếu có người bị tội hủy phạm giới pháp, nghe được danh hiệu ta, người đó sẽ được thanh tịnh, khỏi sa vào đường ác”.
Nguyện thứ sáu: “Ta nguyện đời sau, khi chứng Đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình nào thân hình hèn hạ, các căn không đủ, xấu xa, khờ khạo, tai điếc, mắt đui, nói năng ngọng liệu, tay chân tật nguyền, lát hủi, điên cuồng, chịu những bịnh khổ ấy, nếu nghe danh hiệu ta, liền được thân hình đoan chánh, tâm tánh khôn ngoan, các căn đầy đủ, không còn những bệnh khổ ấy nữa”.
Nguyện thứ bảy: “Ta nguyện đời sau, khi chứng Đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình bị những chứng bệnh hiểm nghèo không ai cứu chữa, không ai để nương nhờ, không gặp thầy, không gặp thuốc, không bà con, không nhà cửa, chịu nhiều nỗi nghèo hèn khốn khổ, nếu nghe danh hiệu Ta một lần, tất cả bịnh hoạn khổ não đều tiêu trừ, thân tâm an lạc, gia quyến sum vầy, của cải sung túc, cho đến chứng được đạo quả vô thượng Bồ Đề”.
Nguyện thứ tám : “Ta nguyện đời sau, khi chứng  Đạo Bồ Đề, nếu có phụ nữ nào bị trăm điều hèn hạ khổ sở, buồn rầu, bực tức, sanh tâm nhàm chán, muốn bỏ thân ấy, nếu nghe danh hiệu ta, được chuyển thân gái thành thân trai, có đủ hình tướng trượng phu, cho đến chứng được đạo quả vô thượng Bồ Đề”.
Nguyện thứ chín: “ Ta nguyện đời sau, khi chứng Đạo Bồ Đề, dẫn dắt chúng hữu tình ra khỏi vòng lưới ma nghiệp, được giải thoát tất cả sự ràng buộc của ngoại đạo. Nếu có những kẻ vào rừng ác kiến, ta dẫn họ trở về với chánh kiến, và dần dần dạy họ tu tập theo các hạnh Bồ Tát đặng mau chứng Đạo Bồ Đề”.
Nguyện thứ mười: “Ta nguyện đời sau, khi chứng Đạo Bồ Đề, nếu có hữu tình nào bị nhà vua xiềng xích, đánh đập, hoặc bị lao tù, hoặc bị chém giết, hoặc bị nhiều tai nạn nhục nhã, thân tâm  chịu những nỗi khổ, buồn rầu, bứt rứt, nếu nghe danh hiệu Ta, nhờ sức oai thần phước đức của Ta, đều được giải thoát tất cả những nỗi ưu khổ ấy”.
Nguyện thứ mười một: “Ta nguyện đời sau, khi chứng Đạo Bồ Đề, nếu có hữu tình nào bị sự đói khát hoành hành, vì tìm miếng ăn phải tạo các nghiệp dữ, nếu nghe danh hiệu Ta, chuyên niệm thọ trì, trước hết Ta dùng các món ăn ngon ban bố cho họ được no đủ, và sau ta đem giáo pháp nhiệm mầu kiến lập cho họ cảnh giới an lạc hoàn toàn”.
Nguyện thứ mười hai: “Ta nguyện đời sau, khi chứng Đạo Bồ Đề, nếu có hữu tình nào nghèo đến nỗi không có áo che thân bị muỗi mồng cắn đốt, nóng lạnh giải dầu, ngày đêm khổ bức, nếu nghe và trì niệm danh hiệu Ta, Ta sẽ giúp cho người đó được như ý muốn: các thứ y phục tốt đẹp, bảo vật trang nghiêm, tràng hoa, phấn sáp thơm ngát, trống nhạc ca múa, muốn thưởng thức thứ nào cũng được thỏa mãn cả”. (1 tiếng chuông)
Nầy Mạn Thù Thất Lợi, đó là mười hai lời nguyện nhiệm mầu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác phát ra trong khi tu hạnh Bồ Tát.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khi còn tu hạnh Bồ tát phát những lời nguyện rộng lớn và những công đức trang nghiêm ở cõi Ngài, dầu ta nói mãn một kiếp cũng không thể hết được. Nhưng ta có thể nói ngay rằng – cõi Phật kia một bề thanh tịnh, không có đàn bà, cũng không có đường dữ, và đến tiếng khổ cũng không.
Ở cõi ấy đất toàn bằng chất lưu ly, đường đi có dây bằng vàng giăng làm ranh giới, thành quách cung điện, mái hiên cửa sổ cho đến các lớp lưới bao phủ cũng toàn bằng đồ thất bảo làm ra, chẳng khác gì những công đức trang nghiêm ở cõi Tây Phương Cực lạc vậy.
Cõi Phật ấy, có hai vị đại Bồ Tát là Nhật Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu, là hai bực thượng thủ trong vô lượng, vô số Bồ Tát, và lại là những bậc sắp bổ xứ làm Phật. Hai vị nầy đều giữ kho báu chánh pháp của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai. Mạn Thù Thất Lợi, vì thế những kẻ thiện nam tín nữ nào có lòng tin vững chắc thì nên nguyện sanh về thế giới của Ngài.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại bảo Đồng Tử Mạn Thù Thất Lợi rằng: “Có những chúng sanh không biết điều lành dữ, cứ ôm lòng bỏn xẻn, không biết bố thí và cũng không biết quả báo của sự bố thí là gì, ngu si vô trí, thiếu hẳn đức tin, lại ham chứa chất của cải cho nhiều, đêm ngay bo bo gìn giữ, thấy ai đến xin, lòng đã không muốn, nhưng nếu cực chẳng đã phải đưa của ra thì đau đớn mến tiếc, dường như lóc thịt cho người vậy. Lại có chúng hữu tình tham lam, chỉ lo tích trữ của cải cho nhiều mà tự mình không dám ăn tiêu, còn nói chi đến sự đem của ấy thí cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ và những kẻ nghèo hèn đến xin. Những kẻ tham lam ấy, khi chết bị đọa vào đường ngạ quỉ hay bàng sinh. Mặc dù ở trong ác thú, nhưng nhờ đời trước, sống trong cõi nhơn gian đã từng nghe qua danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nay lại còn nhớ niệm danh hiệu của Ngài,, liền từ cõi ấy thoát sanh trở lại làm người. Khi đã được làm người lại nhớ đến kiếp sống trong đường ngạ quỉ súc sanh, biết sợ sự đau khổ, nên người đó không ưa đắm dục lạc, muốn tự mình làm việc bố thí, không tham tiếc món gì, có thể đem cả đầu, mắt, tay, chân hay máu thịt của thân mình, bố thí cho những kẻ đến xin.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, trong chúng hữu tình có người thọ giới của Phật để tu học mà lại phá giới, hoặc có kẻ không phá giới mà lại phá phép tắc, hoặc có kẻ tuy chẳng phá giới và phép tắc mà lại hủy hoại chánh kiến, hoặc có kẻ tuy không hủy hoại chánh kiến mà lại bỏ sự đa văn, nên không hiểu được nghĩa lý sâu xa trong kinh Phật nói, hoặc có kẻ tuy đa văn mà có thói tăng thượng mạn, do thói tăng thượng mạn ấy che lấp tâm tánh, cố chấp cho mình là phải, người khác là quấy, chê bai chánh pháp, kết đảng với ma. Những kẻ ngu si ấy, tự mình đã theo tà kiến, khiến cho người khác cũng sa vào hố nguy hiểm. Những chúng hữu tình ấy, bị trôi lăng trong các đường địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh không khi nào cùng. Nếu nghe được danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, họ liền bỏ những hạnh dữ, tu theo các pháp lành, khỏi bị đọa vào ác thú nữa. Giả sử có người không thể bỏ những hạnh dữ và không tu theo những pháp lành mà phải bị đọa vào ác thú thì cũng nhờ oai lực và bổn nguyện của Đức Dược Sư, liền từ nơi ác thú đó được sanh vào cõi người, tinh tấn tu hành chân chánh, khéo điều hòa tâm ý, xuất gia tu học giáo pháp của Như Lai, hiểu rõ nghĩa lý sâu xa, lìa được thói tăng thượng mạn, không chê bai chánh pháp, không bè bạn với ma, dần dần tu theo hạnh Bồ Tát, sẽ chứng được đọa quả Bồ Đề.
Lại nữa, mạn Thù Thất Lợi, nếu chúng hữu tình có tánh tham lam tật đố, hay khen mình chê người, sẽ bị đọa vào ba đường dữ, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, chịu nhiều sự đau đớn khổ sở, trải qua không biết mấy nghìn năm mới hết. Khi đã hết sự đau khổ đó, liền sanh lại cõi người phải làm thân trâu, ngựa, lừa, lạc đà, thường bị người hành hạ, đánh đập và bị đói khát dày vò, đường xa chở nặng, cực nhọc muôn phần; may đặng làm thân người, lại bị sanh vào hạng hạ tiện, làm tôi tớ cho kẻ khác, mãi bị sai sử, không khi nào được chút tự do. Nếu những người ấy, đời trước đã từng nghe danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, do nhân lành ấy, ngày nay nhớ lại, chí tâm quy y Ngài, nhờ thần lực của Ngài gia hộ, được thoát khỏi mọi khổ não, các căn thông lợi, trí huệ sáng suốt, lại thêm đa văn, hằng cầu thắng pháp, thường gặp bạn lành, đời đời dứt hẳn lưới ma, đập nát vỏ vô minh, tát cạn sông phiền não, được thoát khỏi sanh, lão, bịnh, tử, và những nỗi đau khổ lo buồn.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, nếu chúng hữu tình có tánh ưa sự ngang trái chia lìa, tranh đấu, kiện cáo lẫn nhau, làm não loạn cho mình và người, đem thân, khẩu, ý tạo thêm ác nghiệp, xoay qua trở lại, thường làm những việc không nhiêu ích để mưu hại lẫn nhau, hoặc cáo triệu thần núi, thần cây, thần sông, vân vân, để hại người, hoặc giết chúng sanh lấy huyết thịt cúng tế quỉ Dược Xoa và quỉ La Sát để cậy quỉ hại người, hoặc biên tên họ hay làm hình tượng của người cừu oán, dùng phép chú thuật tà ác trù ẻo cho chết, hoặc theo lối ếm đối hay dùng những đồ độc, chú pháp hại người, người nào bị những tai nạn ấy, nếu nghe danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, các thứ tà ác kia không thể hại được. Nếu những kẻ ác tâm đó khởi lòng từ bi làm việc lợi ích an vui cho kẻ khác, không còn ý tổn não và hiềm giận, người đó sẽ được an vui.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, nếu trong hàng tứ chúng: Bí Sô, Bí Sô Ni. Ô Ba Sách Ca, Ô Ba Tư Ca và những thiện nam, tín nữ đều thọ trì tám giới cấm, hoặc trong một năm, hoặc mỗi năm ba tháng, vâng giữ giới pháp làm nơi y chỉ tu học, đem căn lành nầy nguyện sanh về cõi Cực Lạc Của Đức Phật A Di Đà, để nghe chánh pháp, nhưng nếu chưa quyết định, hễ nghe danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, khi mạng chung, sẽ có tám vị đại Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Vô Tận Ý Bồ Tát, Bảo Đàn Hoa Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát từ trên không trung đi đến đưa đường chỉ lối, người đó liền được sanh trong những hoa báu đủ màu. Hoặc nếu có kẻ, nhờ nguyện lực của Đức Dược Sư, được sanh lên cõi trời, và lại nhờ căn lành sẵn có, không còn sanh lại những đường ác nữa. Khi tuổi thọ ở cõi trời đã mãn, người đó lại sanh trong chốn nhân gian, hoặc làm bậc  Luân Vương, thống nhiếp cả bốn châu thiên hạ, oai đức tự tại, giáo hóa cho vô lượng trăm ngàn chúng hữu tình theo đường thập thiện, hoặc sanh vào dòng Sát Đế Lỵ, Bà La Môn hay cư sĩ đại cô, của tiền dư dật, kho đụn tràn đầy, tướng mạo đoan trang, quyến thuộc sum vầy, lại được thông minh trí huệ, dõng mãnh oai hùng như người đại lực sĩ. Còn nếu có người phụ nữ nào nghe danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, hết lòng thọ trì danh hiệu ấy, đời sau sẽ không làm thân gái nữa.
Này Mạn Thù Thất Lợi! Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khi đã chứng Đạo Bồ Đề, do sức Bổn nguyện mà Ngài quan sát biết chúng hữu tình gặp phải các thứ bịnh khổ như da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt, thương hàn, hoặc trúng phải những thứ ếm đối, đồ độc, hoặc bị hoạnh tử, hoặc bị chết non. Muốn những chứng bệnh ấy được tiêu trừ và lòng mong cầu của chúng hữu tình được mãn nguyện, Ngài liền nhập định để: “ diệt trừ tất cả khổ não của chúng sanh”. Khi Ngài nhập định, từ trong nhục kế phóng ra luồng ánh sáng lớn, trong luồng ánh sáng ấy nói đại đà la ni: (1 tiếng chuông)
Nam Mô bạt già phạt đế, bệ sát xã lu lô tích lưu ly, bát lặt bà hắc ra xà dã, đát tha yết đa da, a ra hắc đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xạ, tam một yết đế xoa ha.
Lúc đó, luồng ánh sáng diễn chú nầy rồi cả đại địa rúng động, phóng ra ánh đại quang minh, làm cho tất cả chúng sanh, dứt hết bịnh khổ, hưởng được an vui.
Nầy Mạn Thù Thất Lợi! Nếu thấy người nào đang mắc bịnh, khuyên họ tắm gội sạch sẽ, và vì họ nhứt tâm tụng chú nầy một trăm lẻ tám biến, chú nguyện trong thức ăn, trong thuốc uống, hay trong nước không vi trùng, cho họ uống, những bệnh khổ ấy đều dứt hết.
Nếu có người mong cầu việc gì, chỉ nhất tâm tụng nầy, đều được như ý muốn, đã không bịnh lại được sống lâu, sau khi mạng chung, người đó được về thế giới Tịnh Lưu Ly, không còn thối chuyển, rồi dần dần chứng quả Bồ Đề.
Vậy nên, Mạn Thù Thất Lợi! Chúng hữu tình hết lòng ân cần tôn trọng, cung kính cúng dường Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, và thường trì tụng chú nầy đừng lãng quên.
Lại nữa, nếu có thiện nam tín nữ nào được thấy hình tượng Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác, mỗi sớm mai, súc miệng, đánh răng tắm gội sạch sẽ, xong lại thắp hương, rải dầu thơm, các món kỹ nhạc để cúng dường hình tượng; với kinh nầy, nên dạy người khác hay tự mình biên chép ra, một lòng thọ trì để thấy rõ nghĩa lý; với vị pháp sư giảng kinh pháp, nên cúng dường tất cả những vật dụng cần thiết, hễ hết lòng như vậy, chư Phật sẽ phò hộ người đó được mãn nguyện mọi sự mong cầu.
Lúc bấy giờ, Mạn Thù Thất Lợi đồng tử bạch Phật rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn, qua thời kỳ tượng pháp, con sẽ dùng đủ chước phương tiện, khiến cho những thiện nam tín nữ có lòng tin trong sạch, được nghe danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cả đến trong giấc ngủ của họ, con cũng dùng danh hiệu của Đức Phật này, thức tỉnh nơi tai cho họ rõ biết”.
“ Bạch Đức Thế -Tôn, nếu ai thọ trì đọc tụng kinh nầy, hoặc đem giảng nói, bày tỏ cho người khác, hoặc tự mình hay dạy người biên chép kinh nầy, hết lòng cung kính tôn trọng, dùng bông thơm, dầu thơm, các thứ hương đốt, tràng hoa, anh lạc, phướng lộng, cùng âm nhạc hát múa để cúng dường, hoặc dùng hàng ngũ sắc làm đãy đựng kinh này, quét dọn một nơi sạch sẽ, thiết lập một cái đài cao để lên, liền có bốn vị Thiên Vương quyến thuộc, và vô lượng trăm ngàn thiên chúng ở các cõi trời khác đều đến đó cúng dường và thủ hộ”.
Bạch Đức Thế Tôn, nếu kinh nầy lưu hành đến chỗ nào có người thọ trì và nghe được danh hiệu của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nhờ công đức bổn nguyện của Ngài, chỗ ấy không bị bịnh hoạch tử, cũng không bị những ác quỉ, ác thần đoạt lấy tinh khí, dầu có bị đoạt lấy, cũng được hoàn lại, thân tâm khỏe mạnh như thường”. (1 tiếng chuông)
Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi: thật đúng như lời ngươi nói - nếu có thiện nam tín nữ nào muốn cúng dường Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, trước phải tạo lập hình tượng của Ngài , để trên tòa cao sạch sẽ, rải bông, đốt các thứ hương, dùng các thứ tràng phan trang nghiêm, thờ như thế trong bảy ngày bảy đêm. Người đó phải thọ tam giới, ăn đồ thanh tịnh, tắm gội sạch sẽ, y phục chỉnh tề, giữ lòng thanh tịnh, không giận dữ, không sát hại, đối với tất cả loài hữu tình phải khởi tâm bình đẳng, đủ cả tâm Từ, Bi, Hỉ, làm cho họ được lợi ích an vui, đánh nhạc ca hát ngợi khen, đi nhiễu quanh tượng Phật, nghĩ nhờ công đức bổn nguyện đọc kinh nầy, suy nghiệm nghĩa lý, khai thị cho người khác biết. Làm như vậy, người đó được toại ý việc mong cầu – như cầu sống lâu, được sống lâu, cầu giàu sang, được giàu sang, cầu quan vị, được quan vị, cầu sanh con trai, con gái, thì được sanh con trai, con gái.
Nếu có người nào trong giấc ngủ thấy những điềm chiêm bao dữ, khi thức thấy những ác tướng, như chim đậu gần nhà, hoặc chỗ ở hiện ra trăm điều quái dị, người ấy nên dùng của báu cúng dường Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, những ác mộng, ác tướng và những điềm xấu ấy thảy đều ẩn hết, không còn phải lo sợ.
Nếu người nào gặp tai nạn nguy hiểm như nạn nước, lửa, gươm, đao, thuốc độc và các cầm thú dữ gây sự sợ hãi như: voi, sư tử, cọp, sói, gấu, rắn độc, bò cạp, rít, sên, lằn muỗi, hết lòng nhớ niệm và cung kính cúng dường Đức Dược Sư, người đó được giải thoát khỏi những sự sợ hãi ấy; hoặc nếu bị các nước khác xâm lăng, nhiễu hại, trộm cướp rối loạn, nhớ niệm và cung kính Đức Dược Sư, người đó được thoát khỏi những nạn khổ ấy.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, nếu có thiện nam tín nữ nào từ khi phát tâm thọ giới cho đến ngày chết, không thờ những vị Trời nào, chỉ một lòng nương theo Phật, Pháp, tăng, giữ gìn năm giới, mười giới, Bồ Tát mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh, Tỳ Kheo Tăng hai trăm năm mươi giới, Tỳ kheo Ni ba trăm bốn mươi tám giới, nếu có hủy phạm những giới pháp đã thọ, sợ đọa vào ác thú, nếu chuyên niệm và cung kính cúng dường Đức Dược Sư, người đó quyết định không thọ sanh trong ba đường ác.
Lại nếu có người nữ nào đương lúc sanh sản phải chịu sự cực khổ đau đớn, xưng danh hiệu, lễ bái và hết lòng cung kính cúng dường Đức Dược Sư, người đó sẽ khỏi những sự đau khổ ấy, khi sanh con ra được vuông tròn, tướng mạo đoan nghiêm, lợi căn thông minh, an ổn ít bịnh hoạn, ai thấy cũng vui mừng và không bị quỉ cướp đoạt tinh khí.(1 tiếng chuông)
Lúc ấy, Đức Thích Ca bảo A Nan: “ Như ta đã khen ngợi công hạnh của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đó là công hạnh rất sâu xa của chư Phật, khó hiểu thấu được, vậy ngươi có tin chăng?” A – Nan bạch Phật: “ Bạch Đức Thế Tôn, đối với Khế Kinh của Như Lai nói, không bao giờ con sanh tâm nghi hoặc. Tại sao? Vì những nghiệp thân, khẩu, ý của Như Lai đều thanh tịnh. Bạch Đức Thế Tôn, mặt trời, mặt trăng có thể rơi xuống, núi Diệu cao có thể lay động, nhưng những lời của chư Phật nói ra không bao giờ sai được. Bạch Đức Thế Tôn nếu có chúng sanh nào tín căn không đầy đủ, nghe nói đến những công hạnh sâu xa của chư Phật, thì nghĩ rằng: “ Làm sao chỉ niệm danh hiệu của một Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mà được nhiều công đức thắng lợi ngần ấy? “ Vì sự không tin đó, trở sanh lòng hủy báng, nên họ phải mất nhiều điều lợi ích, mãi ở trong cảnh đêm dài tăm tối, lại còn bị đọa lạc trong các đường ác thú, lưu chuyển không cùng”.
Phật lại bảo A Nan: “ Những chúng hữu tình ấy nếu nghe danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, chí tâm thọ trì, không sanh lòng nghi hoặc, mà đọa vào ác thú, thì thật vô lý vậy.”
“ Này A Nan, đó là công hạnh rất mầu nhiệm của chư Phật, khó tin, khó hiểu, nay ngươi lãnh thọ được, đó là nhờ oai lực của Như Lai vậy”.(1 tiếng chuông)
“ Này A Nan, tất cả các hàng Thinh Văn, Độc Giác và các bậc Bồ Tát chưa lên đến bậc Sơ địa đều không thể tin đúng như thật, chỉ trừ những bậc Nhất Sanh Sở Hệ Bồ Tát mới tin hiểu được mà thôi”.
“ Này A Nan, thân người khó đặng, nhưng hết lòng tin kính tôn trọng ngôi Tam bảo còn khó hơn, huống chi nghe được danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai lại còn khó hơn nữa”.
“ Này A Nan, Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai tu không biết bao nhiêu hạnh Bồ Tát, dùng không biết bao nhiêu phương tiện khéo léo, phát không biết bao nhiêu nguyện rộng lớn, nếu ta nói trong một kiếp hay hơn một kiếp, thì kiếp số đó có thể mau hết, chớ những hạnh nguyện  và những phương tiện khéo léo của Đức Dược Sư, không khi nào nói cho hết được.
(1 tiếng chuông)
Lúc bấy giờ trong chúng hội có một vị Đại Bồ Tát tên là Cứu Thoát Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, gối bên mặt quì sát đất, cúi đầu chắp tay bạch Phật rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn, đến thời kỳ Tượng Pháp có những chúng sanh bị nhiều hoạn nạn, khốn khổ, tật bịnh luôn luôn, thân hình gầy ốm, ăn uống không được, môi cổ khô ran, mắt thấy đen tối, tướng chết hiện ra, cha mẹ, bà con, bạn bè quen biết, vây quanh khóc lóc. Thân bịnh nằm đó, đã thấy quỉ sứ đến dẫn thần thức, đem lại trước vua Diêm Ma. Liền khi ấy, thần Cu Sanh ghi tội phước của người đó, dâng lên vua Diêm Ma”. Lúc bấy giờ, vua phán hỏi và kê tính những tội phước của người kia đã làm mà xử đoán. Nếu trong lúc đó, bà con quen biết, vì người bịnh ấy, quy y với Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai và thỉnh chúng tăng đọc tụng kinh nầy, đốt đèn bảy từng, theo thần phang tục mạng năm sắc, hoặc liền trong lúc ấy, hoặc trải qua bảy ngày, hai mươi mốt ngày, ba mươi năm ngày, bốn mươi chín ngày, thần thức người kia được trở lại như vừa tỉnh giấc chiêm bao, tự mình nhớ biết những nghiệp lành, nghiệp dữ và quả báo đã thọ. Chính đã thấy rõ những nghiệp báo như vầy, dầu có gặp phải những tai nạn nguy hiểm đến tánh mạng, người đó cũng không dám tạo những nghiệp ác nữa. vậy nên, những thiện nam tín nữ phải một lòng trì niệm danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”
Lúc bấy giờ, A Nan hỏi Cứu Thoát Bồ Tát rằng: “ Nên cung kính cúng dường Đức Dược Sư Lưu Ly như thế nào, còn đèn và phang tục mạng phải làm sao?”
Cứu Thoát Bồ Tát nói: “ Nếu có người bịnh nào, muốn khỏi bịnh khổ, bà con của họ phải trì tám phần trai giới trong bảy ngày, bảy đêm, tùy theo sức mình sắm sửa thức ăn uống và các thứ cần dùng để cúng dường chư Tăng, ngày đêm sáu thời, kính lễ Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đọc tụng Kinh nầy bốn mươi chín biến và thắp bốn mươi chín ngọn đèn, lại tạo bảy hình tượng Đức Dược Sư, trước mỗi hình tượng để bảy ngọn đèn, mỗi ngọn lớn như bánh xe, đốt luôn trong bốn mươi chín ngày đêm đừng cho tắt; thần phang được làm bằng hàng ngũ sắc, bề dài bốn mươi chín gang tay, phải phóng sinh bốn mươi chín loài vật khác nhau, người bịnh ấy sẽ qua khỏi ách nạn, không còn bị hoạnh tử và các loài quỉ nhiễu hại”.
“ Lại nữa A Nan, nếu trong dòng Sát Đế Lỵ có những vị quốc vương đã làm lễ quán đảnh mà gặp lúc có nạn, nhân dân bị bịnh dịch, bị nước khác xâm lăng, bị nội loạn, hay bị nạn tinh tú biến ra nhiều điềm quái dị: như nhựt thực, nguyệt thực, mưa gió trái mùa, hạn hán, động đất vân vân, khi đó, các vị quốc vương phải đem lòng từ bi, thương xót tất cả nhân dân, ân xá cho tội nhơn bị giam cầm, cúng dường Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nhờ căn lành nầy và nhờ thần lực của Ngài khiến trong nước được an ổn, mưa hòa gió thuận, lúa thóc được mùa, tất cả nhân dân đều vui vẻ, không bịnh hoạn, không có thần Dược Xoa bạo ác, não hại lê dân. Tất cả các tướng ấy đều ẩn mất và các vị quốc vương được sống lâu khỏe mạnh”.
Nầy A Nan, nếu các hoàng hậu, hoàng phi, công chúa, thái tử, vương tử, đại thần, phụ tướng, thể nữ trong cung, bá quan và thứ dân bị bịnh khổ cùng những tai nạn, nên tạo lập thần phang năm sắc, đèn Dược Sư được thắp sáng luôn, phóng sanh các loài vật, rải hoa đủ sắc, đốt các thứ danh hương để cúng dường Đức Dược Sư, những người đó sẽ được lành bịnh và thoát khỏi các tai nạn.
Ngài A Nan lại hỏi Cứu Thoát Bồ Tát rằng: “Tại sao cái mạng đã hết mà còn sống thêm được?” Cứu Thoát Bồ Tát nói: Như Lai nói có chín thứ hoạnh tử, Đại Đức không nghe hay sao? Vậy nên, Cứu Thoát khuyên người làm phang và đèn tục mạng, tu các phước đức và nhờ đó nên suốt đời không bị khổ sở hoạn nạn. (1 tiếng chuông)
Ngài A Nan lại hỏi: Chín thứ hoạnh tử là gì? Cứu Thoát Bồ Tát trả lời: “ một là nếu có người nào  bị bệnh tuy nhẹ, nhưng không thầy không thuốc, không người săn sóc, hay có gặp thầy lại cho uống lầm thuốc, bịnh không đáng chết mà bị chết oan. Trong khi đang bịnh mà tin theo những thuyết họa phước vu vơ của bọn tà ma ngoại đạo, yêu nghiệt trong đời, sanh lòng rung sợ, không còn tự chủ, phân biệt chánh tà, bói khoa chú thuật, gây thêm tội lỗi, giết hại sanh linh, tấu với thần minh, vái van vọng lượng, để xin ban phước, mong được sống lâu, nhưng không thể được. Bởi si mê lầm lạc, tin theo tà kiến, điên đảo quỷ mị, nên bị hoạnh tử, đọa vào địa ngục, đời đời không ra khỏi. Hai là bị phép vua tru lục. Ba là chơi bời trụy lạc, săn bắn, đam mê tửu sắc, buông lung vô độ, bị loài quỉ đoạt mất tinh khí. Bốn là bị chết thiêu. Năm là bị chết đắm. Sáu là bị các thú dữ ăn thịt. Bảy là bị sa từ trên cao xuống. Tám là bị chết vì thuốc độc, ếm đối, chửi rủa, trù ẻo và bị quỉ Tử Thi làm hại. Chín là bị chết vì đói khát khốn khổ. Đó là chín hoạnh tử, Như Lai nói ra. Còn những hoạnh tử khác, nhiều vô lượng, không thể nói hết được”. (1 tiếng chuông)
Lại nữa A Nan, vua Diêm Ma kia là thủ lãnh ghi chép sổ bộ, tên tuổi, tội phước trong thế gian. Nếu có người nào ăn ở bất hiếu, ngũ nghịch, hủy nhục Ngôi Tam Bảo, phá hoại phép vua tôi, hủy phạm giới cấm, vua Diêm Ma theo tội nặng nhẹ mà hành phạt. Vì thế Ta khuyên mọi người  nên thắp đèn làm phang, phóng sanh, tu phước để khỏi các khổ ách, chỉ gặp những điều vui.
Lúc bấy giờ, trong chúng hội có mười hai vị dược Xoa đại tướng:
Cung Tì La đại tướng,
Phạt Chiếc La đại tướng,
Mê Súy La đại tướng,
An Để La đại tướng,
Át Nể La đại tướng,
San Để la đại tướng,
Nhân Đạt La đại tướng,
Ba Di La đại tướng,
Ma Hổ La đại tướng,
Chơn Đạt La đại tướng,
Chiêu Đỗ La đại tướng,
Tỳ Yết La đại tướng. (1 tiếng chuông)
Mười hai vị đại tướng nầy, mỗi vị đều có bảy ngàn quyến thuộc Dược Xoa đồng cất tiếng bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay chúng con nhờ oai lực của Phật, được nghe danh hiệu của  Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, không còn sợ sệt các đường ác thú nữa. Chúng con đồng một lòng trọn đời quy y Phật, Pháp, tăng, thề sẽ gánh vác cho chúng hữu tình, làm việc nghĩa lợi đưa đến sự nhiêu ích an vui. Trong làng xóm, thành, nước, hoặc trong rừng cây vắng vẻ, nếu có kinh nầy lưu bố đến, hay có người thọ trì danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai và cung kính cúng dường Ngài, chúng con cùng quyến thuộc đồng hộ vệ người ấy thoát khỏi tất cả ách nạn và khiến họ cầu việc chi cũng được thỏa mãn. Nếu có ai bị bịnh hoạn khổ ách, muốn cầu cho khỏi, nên đọc tụng kinh nầy và lấy chỉ ngũ sắc gút danh tự chúng tôi, khi đã được như lòng mong cầu thì mới mở gút ra”.
                  Lúc ấy, Đức Thích ca khen các vị Dược Xoa đại tướng rằng: : Hay thay! Hay thay! Đại Tướng Dược Xoa, các ngươi muốn báo đáp công hạnh của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai nên phát nguyện làm những việc lợi ích an vui cho tất cả chúng hữu tình như vậy”.
Đồng thời, A Nan bạch Phật rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn, pháp môn nầy gọi tên là gì? Và chúng con phải phụng trì như thế nào?”. (1 tiếng chuông)
Phật bảo A Nan: “ Pháp môn nầy gọi là Bổn Nguyện và Công Hạnh của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cũng gọi là Kiết Nguyện Thần Chú của mười hai Thần Tướng, và cũng gọi là Con Đường Dứt Trừ Tất Cả Nghiệp Chướng. Nên đúng như vậy mà thọ trì”.
Khi Phật nói lời ấy rồi, các hàng Đại Bồ Tát, Thinh Văn, Quốc Vương, Đại Thần, Bà La Môn, Cư Sĩ, Thiên Long, Dược Xoa, Kiền Thát bà, A Tố Lạc, Người cùng các loài quỉ thần, tất cả đại chúng đều hết sức vui mừng và đồng tin giữ vâng làm
 
CHÚ DƯỢC SƯ QUÁN ĐẢNH
Nam Mô bạt dà phạt đế, bệ sát xã lu lô thích lưu ly, bát lặc bà hát ra xà dã, đát tha yết đa da, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế xoa ha. (3 lần, 1 tiếng chuông)
Giải kiết, giải kiết, giải oan kiết,
Nghiệp chướng bao đời đều giải hết,
Rửa sạch lòng trần, phát tâm thành kính,
Đối trước Phật đài, cầu xin giải kiết,
Dược Sư Phật, Dược Sư Phật,
Tiêu tai Diên Thọ Dược Sư Phật,
Tùy Tâm Mãn Nguyện Dược Sư Phật.
Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH.
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
Này Ông xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.
Này Ông xá Lợi Phất, tướng không của mọi pháp không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong chân không” , không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư”.
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “ Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”. (1 tiếng chuông)
 
KHEN NGỢI PHẬT DI ĐÀ
A Di Đà Phật thân sắc vàng
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở Phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật. (Mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
SÁM DƯỢC SƯ
    Cúi đầu trước mười phương chư Phật
Chúng con nguyền chân thật kính tin
Phát lời thệ nguyện độ sinh
Y theo Giáo Pháp, Luật, Kinh chỉ bày:
Ngày nào cũng lắm thay công việc
Vì ngu mê mãi miết ân cần
Ngày đêm lo tảo bán tần
Trăm mưu ngàn kế, vô ngần thảm thương.
Lạc một bước sa đường xuống hố
Bị vô minh lắm độ truân chuyên
Vào ra sáu cõi triền miên
Mang thân tứ đại thảm phiền biết bao!
Vậy nhân thế hãy mau xét kỹ
Kiếp phù sinh chớ nghĩ lẳng lơ
Khuyên đừng đem dạ tưởng mơ
Trăm năm cuộc thế như cờ bị vây.
Rút gươm huệ dứt dây tham ái
Kịp tìm thầy thọ phái quy y
Giữ gìn ngũ giới tam quy
Mở lòng từ nhẫn, sân si quyết chừa.
Rèn lòng kinh kệ sớm trưa
Nguyện con ra khỏi nắng mưa cõi trần.
Ngưỡng cầu chư Phật thi ân
Đệ tử phát nguyện ân cần thiết tha:
Một là: Nguyện Đức Di Đà
Cầu xin bá tánh trẻ già khắp nơi
Làm lành lánh dữ kịp thời
Nhà nhà an lạc, nơi nơi thái hòa.
Hai là: Nguyện Đức Thích Ca
Trở đời ly loạn hóa ra thái bình
Mở mang vận hội văn minh
Tâm thần thơ thới, nhơn tình trung lương.
Ba là: Nguyện Chuẩn Đề Vương
Thần thông dẹp hết bốn phương chiến trường
Độ người ngỗ nghịch bạo cường
Bỏ tà quy chánh, theo đường thiện tâm.
Bốn là: Nguyện Đức Quán Âm
Độ người thù oán cừu thâm thuận hòa
Giúp bao tai nạn xảy ra
Cùng người tật bịnh đều hòa an thuyên
Năm là: Nguyện Đức Phổ Hiền
Độ người chân chánh, giữ quyền an dân
Bốn phương tương ái tương thân
Đồng tuân pháp nước, nhân dân kính nhường.
Sáu là: Nguyện Địa Tạng Vương
Độ người xiêu lạc bốn phương được về
Cùng là người chết thảm thê
Hồn linh độ hết đưa về Tây Phương.
Kìa, Cực Lạc là nơi an dưỡng
Đất lưu ly vô lượng khiết tinh
Có Ao Thất Bảo quang minh
Có Sen Chín Phẩm như hình bánh xe.
Ao Thất Bảo ngỏa nguê đẹp đẽ
Nước Bát Công sạch sẽ tinh vi
Bảy hàng cây báu lưu ly
Lan can bảy lớp ma ni sáng ngời.
Chim nói Pháp hôm mai êm dịu
Hoa trên không liễu nhiễu cúng dường.
Bồ Đề nảy búp ngát hương
Cúi xin chư Phật, đoái thương cứu độ.
                                           (1 tiếng chuông)
 
HỒI HƯỚNG
Cầu an công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Hướng về Phật Pháp tỏ Đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây phương cõi Lạc bang,
Sen vàng chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa nở thấy Phật quả viên thành,
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
 
LẠI NGUYỆN
Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật tác đại chứng minh. (1 tiếng chuông)
Hôm nay, chúng con một dạ chí thành, trì tụng Dược Sư Kinh, Chú niệm Phật công đức, cầu nguyện cho Phật tử(tên họ:…, Pháp danh:…), đương thời phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, tật bịnh bình an, thân tâm thường lạc, gia đình thịnh đạt, hưởng cảnh an nhàn, thiên thượng nhân gian, đều trọn thành Phật quả.
(1 tiếng chuông)
                    Nam Mô A Di Đà Phật.
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 
 
 
 
NGHI THỨC TỤNG KIM CANG
(Vajracchedika - Prajnaparamita- Sutra)
GỒM CÓ :
* Chú tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
* Cúng Hương
* Cầu Nguyện
* Khen Ngợi Phật
* Quán Tưởng Phật
* Đảnh Lễ
* Tán Hương Cúng Phật
* Chú Tịnh Khẩu Nghiệp, và Tịnh Tam Nghiệp
* Chú An Thổ Địa, và Phổ Cúng Dường
* Phụng Thỉnh Tám Vị Thần Kim Cang
* Phụng Thỉnh Bốn Vị Đại Bồ Tát
* Văn Phát Nguyện
* Thỉnh Phật Thuyết Pháp
* Kinh Kim Cang
* Chú Kim Cang
* Kệ Khen Ngợi
* Kinh Bát Nhã Ba La Mật
* Niệm Phật
* Sám Ngã Niệm
* Hồi Hướng
* Tam quy

MỤC ĐÍCH HÀNH TRÌ: Phá ngã chấp. Tụng Kinh Kim Cang, hiểu được nghĩa lý rốt ráo, dứt hết phiền não mau lẹ, và đạt đến bờ Giác Ngộ dễ dàng. Vì đặc tính đó, có người tụng để trị bịnh tà ma, và nhờ đó gia đình không bị xào xáo. Hơn nữa, người thọ trị Kinh nầy, đương đời trí tuệ sáng suốt, khi thân hoại mạng chung, lưỡi không bị hư rã.

 
NGHI  THỨC TỤNG KINH KIM CANG
(Thắp đèn đốt hương đứng ngay ngắn, chắp tay ngang ngực, chủ lễ mật niệm).
 
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha. (3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ,truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
(Quỳ ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán, chủ lễ niệm bài cúng hương).
CÚNG HƯƠNG
Giới Hương, Định Hương, và Huệ Hương
Giải Thoát, Giải Thoát, Tri Kiến Hương
Sáng ngời, chiếu khắp mười phương
Hiện tiền Tam Bảo, Năm Hương cúng dường.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
 
CẦU NGUYỆN
Hôm nay, đệ tử chúng con phụng trì di giáo Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, trì tụng Kim Cang Kinh Chú, xưng tán Hồng Danh, tu hành công đức, ngưỡng nguyện mười phương Tam Bảo, từ bi gia hộ cho (tên họ……), phiền não dứt sạch, nghiệp  chướng tiêu trừ, xa lìa khổ ách, thường được an lành, vạn sự đắc thành như ý. (1 tiếng chuông, xá 1 xá)
 
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loài
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
 
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười  phương Phật hiện hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
 
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lạc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện  Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT
Hương trầm vừa đốt
Thơm ngát mười phương
Thành kính cúng dường
Mười phương Tam Bảo.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát.(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ TỊNH KHẨU NGHIỆP
Tu rị tu rị, ma ha tu rị tu tu rị, tát bà ha.
(3 lần,1 tiếng chuông)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ AN THỔ ĐỊA
Nam mô tam mãn đa một đà nẵm, án độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha. (3 lần,1 tiếng chuông)
CHÚ PHỔ CÚNG DƯỜNG
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhật ra hồng. (3 lần,1 tiếng chuông)
 
PHỤNG THỈNH TÁM VỊ THẦN KIM CANG
Phụng thỉnh Thanh Trừ Tai Kim Cang.
Phụng thỉnh Bích Độc Kim Cang.
Phụng thỉnh Huỳnh Tùy Cầu Kim Cang.
Phụng thỉnh Bạch Tịnh Thủy Kim Cang.
Phụng thỉnh Xích Thinh Hỏa Kim Cang.
Phụng thỉnh  Định Trì Tai Kim Cang.
Phụng thỉnh Tử Hiền Kim Cang.
Phụng thỉnh Đại  Thần Kim Cang. (1 tiếng chuông)
 
PHỤNG THỈNH BỐN VỊ ĐẠI BỒ TÁT
 
Phụng thỉnh Kim Cang Quyến Bồ Tát.
Phụng thỉnh Kim Cang Sách Bồ Tát.
Phụng thỉnh Kim Cang Ái Bồ Tát.
Phụng thỉnh Kim Cang Ngữ Bồ Tát.
 
VĂN PHÁT NGUYỆN
Đảnh lễ đấng Trung Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Con nay phát hoằng nguyện
Trì tụng Kinh Kim Cang
Trên đền đáp bốn ân
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có kẻ thấy nghe
Xin phát lòng Bồ Đề
Khi mãn báo thân nầy
Đồng sanh về cõi Phật. (1 tiếng chuông)
 
THỈNH PHẬT THUYẾT PHÁP
Tụng Kinh này thế nào
Được giác ngộ giải thoát?
Tu sao được sống lâu
Thân Kim Cang không hoại?
Lại tu như thế nào
Được sức mạnh vô biên?
Xin Phật vì đại chúng
Diễn nói Pháp nhiệm mầu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần,1 tiếng chuông)
 
KỆ KHAI KINH
Phật pháp cao siêu rất nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì tụng
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ Tát.
                                    (3 lần,1 tiếng chuông)
 
 
PHẬT NÓI KINH KIM CANG BÁT NHÃ BA LA MẬT
1. CHỖ PHẬT NÓI KINH.
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ, đức Phật ở tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc nước Xá Vệ, cùng với chúng đại Tỳ Kheo, một nghìn hai trăm năm mươi vị.
Lúc đó, gần đến giờ ăn, đức Thế Tôn đắp y bưng bát vào thành Xá Vệ khất thực. Theo thứ tự ghé từng nhà khất thực rồi, Đức Phật trở về Tịnh Xá. Dùng cơm xong, cất y bát và rửa chơn, Đức Phật trải tòa ngồi. (1 tiếng chuông)
2. ÔNG TU BỒ ĐỀ HỎI PHẬT.
Bấy giờ, ông Trưởng Lão Tu Bồ Đề, ở trong đại chúng, liền từ chổ ngồi đứng dậy, trịch áo vai hữu và gối bên hữu quỳ sát đất, cung kính chắp tay, bạch Phật rằng:
“ Hy hữu thay Đức Thế Tôn, Đức Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ Tát và khéo phó chúc cho các vị Bồ Tát. Bạch Đức Thế Tôn, nếu có thiện nam hay tín nữ nào phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thời phải trụ tâm như thế nào, và hàng phục tâm như thế nào?”
Đức Phật dạy: “ Hay thay! Hay thay! Này Tu Bồ Đề, đúng như lời của ông vừa nói. Như lai khéo hộ niệm các vị Bồ Tát và khéo phó chúc cho các vị Bồ Tát. Nay, ông nên lóng nghe, ta sẽ vì ông mà nói. Nếu có thiện nam hay tín nữ nào phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phải trụ tâm như thế này, phải hàng phục tâm như thế này.”
Bạch Đức Thế Tôn, Con vui mừng muốn nghe. (1 tiếng chuông)
3. ĐẠI THỪA CHÁNH TÔN.
Phật bảo ngài Tu Bồ Đề: “ Các vị đại Bồ Tát phải hàng phục tâm mình như thế này: nhiều loài chúng sanh, hoặc là noãn sanh, hoặc thai sanh, hoặc thấp sanh, hoặc hóa sanh, hoặc loài có hình sắc, hoặc loài không hình sắc, hoặc loài có tư tưởng, hoặc loài không tư tưởng, hoặc loài chẳng phải có tư tưởng mà cũng chẳng phải không tư tưởng. Ta đều độ chúng chứng được Vô Dư Niết Bàn. Độ vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh như thế, mà không có chúng sanh là kẻ được độ. Tại sao vậy? Nầy Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát còn có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng thời chẳng phải là Bồ Tát.”
4. DIỆU HẠNH VÔ TRỤ.
Lại nữa, Tu Bồ Đề, vị Bồ Tát, đúng nơi Pháp, không có chỗ trụ trước để bố thí, nghĩa là không trụ trước nơi hình sắc mà bố thí, không trụ trước nơi thinh, hương, vị, xúc, pháp mà bố thí. Nầy Tu Bồ Đề, Bồ Tát nên bố thí như thế, chẳng trụ trước nơi tướng. Vì sao? Vì Bồ Tát không trụ trước nơi tướng để bố thí, thời phước đức nhiều không thể suy lường.
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ sao? Có thể suy lường được cõi hư không ở phương Đông chăng?
Bạch Đức Thế Tôn, không thể suy lường được.
Tu Bồ Đề, có thể suy lường được cõi hư không ở phương Nam, Tây, Bắc, cõi hư không ở bốn hướng cạnh và cõi hư không ở Trên, Dưới chăng?
Bạch Đức Thế Tôn, không thể suy lường được.
Tu Bồ Đề, Bồ Tát không trụ trước nơi tướng để bố thí, thời phước đức cũng lại như thế, không thể suy lường được.
Tu Bồ Đề, Bồ Tát nên đúng như lời Ta dạy mà trụ. (1 tiếng chuông)
5. THẤY CHƠN THẬT ĐÚNG LÝ.
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ sao? Căn cứ trên thân tướng có thể thấy Như Lai không?
Bạch Đức Thế Tôn, không thể căn cứ trên thân tướng thấy được Đức Như Lai vì sao đức Như Lai nói thân tướng mà chẳng phải thân tướng.
Phật bảo Tu Bồ Đề: Phàm có tướng đều là hư vọng cả; nếu thấy các tướng đều không phải là tướng, chính là thấy Như Lai . (1 tiếng chuông)
6. CHÁNH TÍN TẤT HI HỮU.
Ông Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, như có chúng sanh nào được nghe những câu, bài giảng như vậy, có sanh lòng tin thật chăng?”
Phật bảo Tu Bồ Đề: Ông chớ nói lời ấy. Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, có người trì giới tu phước có thể sanh lòng tin nơi những câu trong bài nầy mà cho đó là thật; phải biết rằng người ấy chẳng phải vun trồng căn lành nơi một Đức Phật, hai Đức Phật, ba, bốn, năm Đức Phật, mà người đó đã vun trồng căn lành từ nơi vô lượng nghìn muôn ức  Đức Phật rồi.
Như có ai nghe những câu trong bài nầy, sanh lòng tin trong sạch, trong khoảng một niệm. Tu Bồ Đề, Như lai đều thấy đều biết những chúng sanh đó đặng phước đức vô lượng. Vì sao? Vì những chúng sanh đó không còn có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, không có pháp tướng, cũng không có phi pháp tướng. Vì sao? Vì những chúng sanh đó nếu trong lòng chấp tướng thời chính là chấp ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nếu chấp pháp tướng thời chính là chấp ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả và vì nếu chấp phi pháp tướng thời cũng chính là chấp ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, vì thế cho nên chẳng nên chấp Pháp và chẳng nên chấp phi Pháp.
Cùng ý nghĩa đó, nên Như Lai thường dạy rằng: “ Nầy các Tỳ Kheo, các ông phải biết Pháp của Ta nói ra, cũng như thuyền bè, Pháp còn xả bỏ, huống nữa là phi Pháp.”(1 tiếng chuông)
7. VÔ ĐẮC VÔ THUYẾT.
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như Lai có chứng được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác không? Như Lai có nói Pháp không?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “Như con hiểu ý nghĩa của Đức Phật nói, thời không có Pháp nào nhứt định gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng không có Pháp nào nhứt định, Đức Như Lai có thể nói được. Vì sao? Vì Pháp của Đức Như Lai nói đều không thể vin lấy, không thể nói được, chẳng phải Pháp, chẳng phải không phải pháp. Vì sao? Vì tất cả Hiền Thánh đều do nơi “ Pháp vô vi” mà có khác nhau.”   (1 tiếng chuông)
8. Y PHÁP XUẤT SANH CÔNG ĐỨC.
       Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như có người đem bảy thứ báu đầy cả cõi Tam Thiên Đại Thiên để làm việc bố thí, phước đức của người đó có nhiều không?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều. Vì sao? Vì phước đức đó, không phải thật phước đức cho nên Đức Như Lai nói là phước đức nhiều.”
Còn như có người thọ trì kinh nầy nhẫn đến một bài kệ bốn câu vân vân, lại giảng nói cho người khác, thời phước đức nầy nhiều hơn phước đức trước. Vì sao? Nầy Tu Bồ Đề, tất cả các đức Phật và Pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của các Ngài đều từ kinh này có ra.
Này Tu Bồ Đề, Phật Pháp nói đó chính chẳng phải là Phật Pháp. (1 tiếng chuông)
9. NHỨT TƯỚNG KHÔNG CÓ TƯỚNG.
Tu Bồ Đề, vị Tu Đà Hoàn có thể tự nghĩ mình chứng quả Tu Đà Hoàn không?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn, không thể được.” Vì sao? Vì vị Tu Đà Hoàn gọi là bực Nhập Lưu, mà thật không nhập vào nơi đâu, không vào sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, nên gọi là Tu Đà Hoàn.”
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Vị Tư Đà Hàm có thể tự nghĩ rằng mình chứng quả Tư Đà Hàm không?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn, không thể được.” Vì sao? Vì vị Tư Đà Hàm  gọi là bực Nhứt Vãng Lai, mà thật không có vãng lai, nên gọi là Tư Đà Hàm.”
Tu Bồ Đề, ý ông nghĩ thế nào? Vị A Na Hàm có thể tự nghĩ rằng mình chứng quả A Na Hàm không?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn, không thể được.” Vì sao? Vì vị A Na Hàm gọi là bực Bất Lai, mà thật không có tướng bất lai, nên gọi là A Na Hàm.”
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Vị A La Hán có thể tự nghĩ rằng mình đắc Đạo A La Hán không?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn, không thể được.” Vì sao? Vì thật không có Pháp chi gọi là A La Hán.
Bạch Đức Thế Tôn,, nếu vị A La Hán nghĩ thế nầy: ta đắc Đạo A La Hán, thời chính là chấp trước tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả.
Bạch Đức Thế Tôn, Đức Phật dạy rằng con được Vô Tránh Tam Muội, là bực nhứt trong mọi người, là bực A La Hán ly dục thứ nhứt.
Bạch Đức Thế Tôn, con không tự nghĩ rằng mình đắc Đạo A La Hán, chắc Đức Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là người ưa hạnh tịch tịnh. Vì Tu Bồ Đề thật không mống niệm, nên gọi Tu Bồ Đề là ưa hạnh tịch tịnh. (1 tiếng chuông)
10. TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ.
Đức Phật bảo Tu Bồ Đề: “ Ý của ông nghĩ thế nào? Thuở Đức Phật Nhiên Đăng, Như Lai có chứng được Pháp không?”
Bạch Đức Thế Tôn: Không. Thuở Đức Phật Nhiên Đăng, Đức Như Lai thật không chứng được Pháp.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Bồ Tát có trang nghiêm Phật độ chăng?
Bạch Đức Thế Tôn: Không.Vì sao? Vì trang nghiêm Phật độ, chính chẳng phải trang nghiêm, đó gọi là trang nghiêm.
Nầy Tu Bồ Đề, vì thế các vị đại Bồ Tát nên sanh tâm thanh tịnh như vầy: chẳng nên trụ trước nơi sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ trước nơi thinh, hương, vị, xúc và pháp mà sanh tâm, nên không chỗ trụ trước mà sanh tâm thanh tịnh.
Nầy Tu Bồ Đề, ví như có người thân lớn như núi Tu Di, ý ông nghĩ thế nào? Thân của người đó có lớn chăng?
 Tu Bồ Đề bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, rất lớn. Vì sao? Vì Đức Phật nói chẳng phải thân, nên gọi là thân lớn. (1 tiếng chuông)
11. PHƯỚC ĐỨC VÔ VI THÙ THẮNG.
Tu Bồ Đề, như trong sông Hằng có bao nhiêu cát, số sông Hằng lại nhiều như số cát đó. Ý của ông nghĩ thế nào? Số cát trong những sông Hằng đó có nhiều không?
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều. Số sông Hằng đã nhiều rồi, huống nữa là số cát trong sông.”
Nầy Tu Bồ Đề, nay Ta bảo ông: nếu có thiện nam hay tín nữ nào đem bảy thứ báu đầy cả ngần ấy sông Hằng để làm việc bố thí, người đó được phước có nhiều không?
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều.”
Phật bảo Tu Bồ Đề: “ Nếu có thiện nam hay tín nữ nào thọ trì kinh nầy nhẫn đến một bài kệ bốn câu vân vân, và giảng nói cho người khác nghe, thời phước đức nầy hơn phước đức trước kia”.(1 tiếng chuông)
12. TÔN TRỌNG CHÁNH GIÁO.
Nầy Tu Bồ Đề, lại nữa, tùy chỗ giảng nói kinh nầy, nhẫn đến một bài kệ bốn câu vân vân, nơi chỗ đó, tất cả Trời, Người, A Tu La, nên cúng dường như là tháp miếu thờ Phật. Huống nữa, có người thọ trì đọc tụng trọn cả kinh nầy. Nầy Tu Bồ Đề, phải biết người ấy trọn nên Pháp tối thượng hi hữu bực nhứt. Chỗ nào có kinh nầy, chỗ đó có Phật hoặc có Đệ Tử của Phật đáng được tôn kính. (1 tiếng chuông)
13. THỌ TRÌ ĐÚNG NHƯ PHÁP.
Bấy giờ, Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn tên kinh nầy gọi là gì? Chúng con phải phụng trì thế nào?”
Phật bảo Tu Bồ Đề rằng: “ Kinh nầy tên là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, ông nên theo danh tự nầy mà phụng trì. Vì sao? Nầy Tu Bồ Đề, Như Lai nói Bát Nhã Ba La Mật, chẳng phải Bát Nhã Ba La Mật, đó gọi là Bát Nhã Ba La Mật.
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như Lai có nói Pháp không?”
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, Đức Như Lai không có nói Pháp.”
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Vi trần trong cõi Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới có nhiều không?
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều.”
Nầy Tu Bồ Đề, những vi trần ấy, Như Lai nói chẳng phải vi trần, đó gọi là vi trần. Như Lai nói thế giới cũng chẳng phải thế giới, đó gọi là thế giới.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Có thể căn cứ trên ba mươi hai tướng tốt cho là Như Lai chăng?
Bạch Đức Thế Tôn: không. Chẳng thể căn cứ trên ba mươi hai tướng tốt cho là Như Lai. Vì sao? Vì Đức Như Lai nói ba mươi hai tướng tốt chẳng phải tướng tốt, đó gọi là ba mươi hai tướng tốt.
Tu Bồ Đề, như có thiện nam hay tín nữ nào đem thân mạng bằng số cát sông Hằng ra bố thí. Nếu lại có người theo kinh nầy thọ trì, cho đến bài kệ bốn câu vân vân, giảng nói cho người khác nghe, thời phước của người nầy nhiều hơn người trên. (1 tiếng chuông)
14. VẮNG LẶNG LÌA TƯỚNG.
Bấy giờ, Tu Bồ Đề nghe Phật nói kinh nầy, hiểu thấu nghĩa của kinh, nên ông buồn khóc, và bạch Phật rằng: “ Hi hữu thay Đức Thế Tôn, Phật nói kinh rất sâu xa dường ấy, từ trước ngày được huệ nhãn đến nay, con chưa từng được nghe như thế nầy. Bạch Đức Thế Tôn, nếu lại có người nào được nghe kinh nầy, có lòng tin thanh tịnh, thời chính là sanh thật tướng. Phải biết người ấy trọn nên công đức hi hữu bực nhứt. Bạch Đức Thế Tôn, thật tướng đó chính chẳng phải tướng, cho nên Đức Như Lai gọi là thật tướng.
Bạch Đức Thế Tôn, nay được nghe kinh nầy, con tin hiểu thọ trì, không cảm thấy khó. Vào khoảng năm trăm năm sau, chúng sanh nào được nghe kinh nầy, rồi tin hiểu thọ trì, thời người ấy chính là hi hữu bực nhứt. Vì sao? Vì người ấy không có ngã tướng, không có nhơn tướng, không có chúng sanh tướng, không có thọ giả tướng. Vì sao? Vì ngã tướng không phải tướng; nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng đều cũng không phải tướng. Vì sao? Vì xa lìa tất cả tướng, chính đó gọi là chư Phật.
Phật bảo Tu Bồ Đề: “ Đúng thế! Đúng thế! Lại như có người được nghe kinh nầy mà lòng không kinh hãi, không e sợ, không nhút nhát, phải biết người đó rất là hi hữu. Vì sao? Nầy Tu Bồ Đề, Như Lai nói Ba La Mật thứ nhứt, chẳng phải Ba La Mật thứ nhứt, đó gọi là Ba La Mật thứ nhứt.
NầyTu Bồ Đề, nhẫn nhục Ba La Mật, Như Lai nói chẳng phải nhẫn nhục Ba La Mật, đó gọi là nhẫn nhục Ba La Mật. Vì sao? Nầy Tu Bồ Đề, thuở xưa, Ta bị vua Ca Lợi chặt đứt thân thể, trong lúc đó, ta không có ngã tướng, không có nhơn tướng, không có chúng sanh tướng, không có thọ giả tướng. Vì sao? Vì lúc thân bị chặt rời rã, nếu Ta có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, thời Ta mống lòng hờn giận.
Nầy Tu Bồ Đề, Ta lại nhớ, thuở quá khứ, trong năm trăm đời, Ta làm vị Tiên nhẫn nhục. Trong bao nhiêu đời đó, Ta không chấp ngã tướng, không chấp nhơn tướng, không chấp chúng sanh tướng, không chấp thọ giả tướng.
Tu Bồ Đề, vì thế nên Bồ Tát phải xa lìa tất cả tướng, phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Chẳng nên trụ nơi sắc mà sanh tâm, chẳng nên trụ nơi thinh, hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm. Nên sanh tâm không trụ vào đâu cả. Nếu như tâm có trụ, chính chẳng phải trụ, cho nên Đức Phật nói tâm của Bồ Tát chẳng nên trụ nơi sắc mà bố thí.
Nầy Tu Bồ Đề, vì lợi ích cho tất cả chúng sanh, Bồ Tát phải bố thí như thế. Như Lai nói tất cả các tướng, chính không phải tướng, lại nói tất cả chúng sanh, chính không phải chúng sanh.
Nầy Tu Bồ Đề, Như Lai nói lời chơn chánh, lời chắc thật, lời đúng đắn, lời không phỉnh phờ, lời không sai khác.
Nầy Tu Bồ Đề, pháp của Như Lai chứng đặng, pháp ấy không thiệt không hư.
Nầy Tu Bồ Đề, nếu tâm của Bồ Tát  trụ nơi Pháp để làm việc bố thí, như người vào chỗ tối tăm, không thấy chi cả. Nếu tâm của Bồ Tát không trụ nơi pháp để làm việc bố thí, như người có mắt sáng lại có ánh sáng mặt trời chiếu đến, thấy đủ hình sắc.
Nầy Tu Bồ Đề, đời sau, nếu có thiện nam hay tín nữ nào đọc tụng kinh nầy, Như Lai sẽ biết rõ người ấy, đều thấy rõ người ấy, sẽ được thành tựu công đức vô lượng vô biên. (1 tiếng chuông)
15. CÔNG ĐỨC TRÌ KINH.
Nầy Tu Bồ Đề, nếu có thiện nam hay tín nữ nào, buổi sáng, đem thân mạng bằng số cát sông Hằng để bố thí, buổi trưa, lại đem thân mạng bằng số cát sông Hằng để bố thí, buổi chiều, cũng đem thân mạng bằng số cát sông Hằng để bố thí, trong vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp đem thân mạng bố thí như thế, lại có người nghe kinh nầy, sanh lòng tin, không trái, thời phước của người nầy hơn phước của người trước kia, huống chi là biên chép, thọ trì, đọc tụng, nói cho người khác nghe. Nầy Tu Bồ Đề, tóm lại, thời kinh nầy có vô biên công đức không thể nghĩ bàn, không thể cân lường được. Như lai vì người phát tâm đại thừa mà nói, vì người phát tâm tối thượng thừa mà nói.
Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, giảng nói rộng ra cho người khác nghe, thời Như Lai đều biết rõ người ấy, đều thấy rõ người ấy, sẽ được trọn nên công đức không thể cân lường, và không thể nghĩ bàn được. Những người như thế sẽ gánh vác Pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Như Lai. Vì sao? Nầy Tu Bồ Đề, vì người nào ham ưa pháp tiểu thừa chấp trước ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh, thọ giả tướng, thời người ấy không thể nghe nhận, đọc tụng và giảng nói kinh nầy cho người khác nghe.
Nầy Tu Bồ Đề, nếu những nơi nào có kinh nầy, tất cả Trời, Người, A Tu La vân vân, đều nên cúng dường. Chỗ đó, chính là tháp thờ Đức Phật, nên cung kính lễ lạy, đi nhiễu chung quanh, rải các món hương hoa trên đó để cúng dường. (1 tiếng chuông)
16. TRỪ HẾT NGHIỆP CHƯỚNG.
Lại nữa, nầy Tu Bồ Đề, như thiện nam hay tín nữ nào đọc tụng kinh nầy, nếu bị người khinh chê, vì tội nghiệp đã gây ra trong đời trước, đáng lẽ người đó sẽ phải đọa vào ác đạo, nhưng trong đời nay, bị người khinh chê, nên không những tội nghiệp đã gây ra trong đời trước được tiêu diệt, người ấy còn được Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nầy Tu Bồ Đề, Ta nhớ lại thuở trước, Đức Phật Nhiên Đăng ra đời, vô lượng vô số kiếp về quá khứ, Ta được hầu hạ cúng dường tám trăm bốn nghìn muôn ức na do tha các Đức Phật, không luống bỏ qua. Về đời sau, nếu có người thọ trì đọc tụng kinh nầy, thời công đức của người ấy được nhiều hơn muôn ức lần công đức cúng dường các Đức Phật của Ta trong thuở trước. Nầy Tu Bồ Đề, về đời sau, nếu có thiện nam hay tín nữ nào thọ trì đọc tụng kinh nầy, công đức của người ấy được, nếu Ta nói hết cả ra, có kẻ nghe, trong lòng sẽ cuồng loạn nghi ngờ không tin.
Nầy Tu Bồ Đề, vì nghĩa lý của kinh nầy không thể nghĩ bàn, nên quả báo cũng không thể nghĩ bàn. (1 tiếng chuông)
17. RỐT RÁO KHÔNG NGÃ.
Bấy giờ, Tu Bồ Đề bạch Phật: “ Bạch Đức Thế Tôn, thiện nam hay tín nữ nào phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phải trụ tâm như thế nào, phải hàng phục tâm như thế nào?”
Phật bảo Tu Bồ Đề: “ Thiện nam hay tín nữ nào phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thời phải sanh tâm như vầy: Ta phải cứu độ tất cả chúng sanh, cứu độ tất cả chúng sanh xong,  nhưng không có một chúng sanh nào được cứu độ. Vì sao? Nầy Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát có ngã tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng, thời chẳng phải Bồ Tát. Vì sao? Nầy Tu Bồ Đề, vì thật ra không có pháp chi phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Vào thuở Như Lai ở với Đức Phật Nhiên Đăng có Pháp chi để chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác không?
Bạch Đức Thế Tôn: Không, như chỗ con hiểu nghĩa của Đức Thế Tôn nói, thời Đức Thế Tôn ở với Đức Phật Nhiên Đăng không có Pháp chi để chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Phật dạy rằng: “ Đúng thế! Đúng thế! Nầy Tu Bồ Đề, thật không có Pháp chi để Như Lai chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nầy Tu Bồ Đề, nếu có Pháp để Như Lai chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thời Đức Nhiên Đăng chẳng thọ ký cho ta như sau: “ Đời sau, ông sẽ thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni”.
Sự thật, không có Pháp chi để chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho nên Đức Nhiên Đăng đã thọ ký cho Ta và nói lời nầy: “ Đời sau, ông sẽ đặng thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni”. Vì sao? Vì Như Lai đó chính nghĩa là “ Các Pháp”. Nếu có người nói: “ Như Lai chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nầy Tu Bồ Đề, thật ra không có Pháp chi để ta chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nầy Tu Bồ Đề, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Như Lai chứng được không thật, không hư, vì thế Như Lai nói “ Tất Cả Các Pháp Đều Là Phật Pháp”. Nầy Tu Bồ Đề, tất cả Pháp, Như Lai nói đó, chính chẳng phải tất cả Pháp, cho nên gọi là tất cả Pháp.
Nầy Tu Bồ Đề, ví như thân người cao lớn.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng : “ Bạch Đức Thế Tôn, Đức Như Lai nói thân người cao lớn, chính chẳng phải thân người cao lớn, đó gọi là thân người cao lớn.”
Nầy Tu Bồ Đề, Bồ Tát cũng như thế. Nếu nói lời như vầy: Ta sẽ cứu độ vô lượng chúng sanh, vị đó không được gọi là Bồ Tát. Vì thế, Ta nói tất cả là không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả.
Nầy Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát nói như thế nầy: Ta phải trang nghiêm Phật độ, vị ấy không được gọi là Bồ Tát. Vì sao? Vì Như Lai nói trang nghiêm Phật độ, chính chẳng phải trang nghiêm, đó gọi là trang nghiêm.
Nầy Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát thông đạt được “ Pháp Vô Ngã” thời Như Lai mới gọi là Bồ Tát. (1 tiếng chuông)
18. XEM ĐỒNG MỘT THỂ.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như Lai có nhục nhãn không?
Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế. Đức Như Lai có nhục nhãn.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như Lai có thiên nhãn không?
Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế. Đức Như Lai có thiên nhãn.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như Lai có huệ nhãn không?
Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế. Đức Như Lai có huệ nhãn.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như Lai có pháp nhãn không?
Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế. Đức Như Lai có pháp nhãn.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như Lai có Phật nhãn không?
Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế. Đức Như Lai  có Phật nhãn.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như bao nhiêu cát trong sông Hằng, Như Lai có nói là cát chăng?
Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế. Đức Như Lai  nói là cát.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như bao nhiêu cát trong một sông Hằng, trong nhiều sông Hằng, cõi Phật như số cát trong những sông Hằng đó có nhiều không?
Bạch Đức Thế Tôn: Rất nhiều.
Phật bảo Tu Bồ Đề: “ Bao nhiêu tâm niệm của tất cả chúng sanh trong ngần ấy cõi nước, Như Lai đều biết rõ. Vì sao? Vì Như Lai nói các thứ tâm đều chẳng phải tâm, đó mới gọi là tâm. Vì sao? Nầy Tu Bồ Đề, tâm quá khứ không có, tâm hiện tại không có, tâm vị lai không có. (1 tiếng chuông)
19. THÔNG HÓA PHƯỚC ĐỨC.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như có người đem bảy thứ báu đầy cả cõi Tam Thiên Đại Thiên để bố thí, người ấy có phước nhiều không?
Bạch Đức Thế Tôn, người đó được phước rất nhiều.
Nầy Tu Bồ Đề, nếu phước đức có thật, Như lai không nói phước đức ấy nhiều. Vì không có phước đức, nên Như Lai nói là phước đức nhiều. (1 tiếng chuông)
20. LÌA SẮC TƯỚNG.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Có thể do sắc thân cụ túc thấy được Phật không?    
Bạch Đức Thế Tôn: Không. Không thể do sắc thân cụ túc mà thấy được Đức Như Lai. Vì sao đức Như Lai nói sắc thân cụ túc, chẳng phải sắc thân cụ túc, đó gọi là sắc thân cụ túc.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Có thể do các tướng cụ túc mà thấy được Phật không?   
Bạch Đức Thế Tôn: Không. Không thể do các tướng cụ túc mà thấy được Đức Như Lai. Vì sao? Vì Đức Như Lai nói các tướng cụ túc, chẳng phải các tướng cụ túc, đó gọi là các tướng cụ túc. (1 tiếng chuông)
21. CHẲNG PHẢI NĂNG THUYẾT SỞ THUYẾT.
Nầy Tu Bồ Đề, ông chớ nói rằng Như Lai nghĩ thế nầy: Ta nên thuyết pháp, ông đừng nghĩ như thế. Vì sao? Vì nếu người nào nói rằng: Như Lai có thuyết pháp, thời là hủy báng Như Lai, không hiểu nghĩa lý của Như Lai nói. Nầy Tu Bồ Đề, thuyết pháp, thật không có Pháp chi nói được, đó gọi là thuyết pháp.
Bấy giờ, Huệ Mạng Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, đời sau, có chúng sanh nào nghe pháp nầy mà sanh lòng tin chăng?”
Phật dạy rằng: “Nầy Tu Bồ Đề, chúng sanh đó chẳng phải chúng sanh, cũng chẳng phải là không phải chúng sanh. Vì sao? Nầy Tu Bồ Đề, những chúng sanh đó, Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, đó gọi là chúng sanh.” (1 tiếng chuông)
22. KHÔNG PHÁP CHI CÓ THỂ ĐƯỢC.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng “Bạch Đức Thế Tôn, Phật chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là không có chỗ để chứng phải không?”
Phật dạy: “ Đúng thế, nầy Tu Bồ Đề, Ta ở nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nhẫn đến không có Pháp nhỏ nào để có thể gọi là chứng, đó gọi là Vô Thượng Chánh Giác”. (1 tiếng chuông)
23. TỊNH TÂM HÀNH THIỆN.
Lại nữa, nầy Tu Bồ Đề, Pháp đó bình đẳng không có cao thấp, mới gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì không ngã, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả, lại tu tất cả Pháp lành, nên chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nầy Tu Bồ Đề, Pháp lành được Như Lai nói đó, chẳng phải pháp lành, đó gọi là pháp lành. (1 tiếng chuông)
24. PHƯỚC ĐỨC TRÍ HUỆ KHÔNG CHI SÁNH BẰNG.
Nầy Tu Bồ Đề, nếu có người góp bảy thứ báu lại nhiều như số núi Tu Di trong cõi Tam Thiên Đại Thiên để bố thí, công đức của người nầy sánh với công đức của người trì tụng hay giảng nói một bài kệ bốn câu trong kinh Bát Nhã Ba La Mật nầy cho người khác nghe, thì công đức của người sau lớn gấp trăm ngàn lần công đức của người trước. (1 tiếng chuông)
25. HÓA ĐỘ KHÔNG NGƯỜI ĐƯỢC HÓA ĐỘ.
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Các ông chớ cho rằng Như Lai nghĩ như vầy: Ta phải hóa độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, ông đừng nghĩ như thế. Vì sao? Vì thật không có chúng sanh nào được Như Lai độ cả. Nếu có chúng sanh để Như Lai độ, thời Như Lai còn có tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nầy Tu Bồ Đề, Như Lai nói ngã, chính chẳng phải ngã, kẻ phàm phu lại cho có ngã. Nầy Tu Bồ Đề, phàm phu đó Như Lai nói chẳng phải phàm phu, đó gọi là phàm phu.   (1 tiếng chuông)   
26. PHÁP THÂN KHÔNG PHẢI SẮC TƯỚNG
Nầy Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Có thể căn cứ trên ba mươi hai tướng tốt mà cho là Như Lai chăng?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “ Đúng thế! Đúng thế! Căn cứ trên ba mươi hai tướng tốt cho là Đức Như lai.”
Phật dạy rằng: “Nầy Tu Bồ Đề, nếu do ba mươi hai tướng tốt mà xem là Như Lai, Thời Chuyển Luân Thánh Vương là Như Lai sao?
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng “ Bạch Đức Thế Tôn, con hiểu nghĩa Phật muốn nói, “ chẳng nên căn cứ trên ba mươi hai tướng tốt mà cho là Đức Như Lai.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Nếu dùng sắc thấy Ta,
Dùng âm thinh cầu Ta
Người ấy tu đạo tà
Chắc là không thấy Ta.
27. KHÔNG ĐOẠN KHÔNG DIỆT
Nầy Tu Bồ Đề, nếu ông nghĩ thế nầy: Như Lai không do tướng cụ túc chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nầy Tu Bồ Đề, ông đừng nghĩ Như Lai không do tướng cụ túc, chứng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nầy Tu Bồ Đề, nếu ông nghĩ như vầy: người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nói các Pháp đều đoạn diệt. Ông đừng nghĩ như thế. Vì sao? Vì người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác nói Pháp không nói tướng đoạn diệt.
28. CHẲNG NHẬN LẤY CHẲNG THAM
Nầy Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát đem bảy thứ báu đầy cả những cõi nước bằng số cát sông Hằng để làm việc bố thí. Nếu lại có Bồ Tát biết “ Pháp Vô Ngã” của tất cả Pháp mà được thành nhẫn trí. Vị Bồ Tát nầy được công đức hơn phước đức của vị Bồ Tát trước. Vì sao? Nầy Tu Bồ Đề, vì các vị Bồ Tát không nhận lấy phước đức.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn, tại sao các vị Bồ Tát không nhận lấy phước đức?”
Nầy Tu Bồ Đề, Bồ Tát có làm việc phước đức chẳng nên tham trước, vì thế, nên nói chẳng nhận lấy phước đức.
29. OAI NGHI VẮNG LẶNG.
Nầy Tu Bồ Đề, nếu có người nói: Đức Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm, người ấy không hiểu nghĩa của Như Lai nói. Vì sao? Vì Như Lai không từ nơi nào lại, cũng không đi về đâu, nên gọi là Như Lai.
30. NGHĨA LÝ NHỨT HIỆP TƯỚNG
Nầy Tu Bồ Đề, như có thiện nam hay tín nữ đem cõi Tam Thiên Đại Thiên đập nát ra thành bụi, ý của ông nghĩ thế nào? Số bụi đó có nhiều không?
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “ Bạch Đức Thế Tôn, rất nhiều. Vì sao? Vì nếu số bụi đó thật có, thời Đức Phật chẳng nói là số bụi. Vì sao? Vì Đức Phật nói bụi, chẳng phải bụi, đó gọi là bụi.
Bạch Đức Thế Tôn, cõi Tam Thiên Đại Thiên, Đức Như Lai nói chẳng phải thế giới, nên gọi là thế giới. Vì sao? Vì nếu thế giới là thật có, thời là” một hiệp tướng”. Đức Như Lai nói “ một hiệp tướng”, đó gọi là “ một hiệp tướng”.
Nầy Tu Bồ Đề, “ một hiệp tướng”, đó không thể nói được, chỉ kẻ phàm phu tham trước việc ấy thôi. (1 tiếng chuông)
31. CHỖ THẤY BIẾT KHÔNG SANH.
Nầy Tu Bồ Đề, như có người nói: Phật nói ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, ý của ông nghĩ thế nào? Người ấy hiểu nghĩa của Phật nói không?
Bạch Đức Thế Tôn: Không. Người ấy không hiểu nghĩa của Phật nói. Vì sao? Vì Phật nói ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, chẳng phải ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến, đó gọi là ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến.
Nầy Tu Bồ Đề, nơi tất cả Pháp, người phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác phải biết như thế, thấy như thế, tin hiểu như thế, chẳng sanh pháp tướng. Nầy Tu Bồ Đề, Như Lai nói pháp tướng đó, không phải pháp tướng, đó gọi là pháp tướng.
32. ỨNG HÓA KHÔNG PHẢI CHƠN THẬT
Nầy Tu Bồ Đề, như có người đem bảy thứ báu đầy cả vô lượng vô số cõi nước để làm việc bố thí. Lại có thiện nam hay tín nữ nào phát tâm Bồ Đề thọ trì kinh nầy, nhẫn đến một bài kệ bốn câu vân vân, tự mình thọ trì đọc tụng hay giảng cho kẻ khác nghe, thời phước đức của người nầy hơn người trước.
Cách giảng nói cho người khác nghe như thế nào? Không chấp nơi tướng, như như chẳng động. Vì sao? Vì:
Tất cả các” pháp hữu vi”
Như là mộng huyễn, khác chi bóng hình
Như sấm chớp, như âm thinh
Quán xem “các pháp” như hình “ không hoa”. Đức Phật nói kinh nầy xong, Trưởng Lão Tu Bồ Đề và các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, tất cả Trời, Người, A Tu La vân vân, nghe những lời của đức Phật nói, thảy đều vui mừng tin nhận và làm theo.
(1 tiếng chuông)
CHÚ KIM CANG
Án, hô rô hô rô, xả duệ mục khê, xoa ha.
                                           (3 lần,1 tiếng chuông)
 
KỆ KHEN NGỢI
Kim Cang diệu lý khó đo lường
Như Lai giác ngộ đã tuyên dương
Người nghe hiểu rõ “ chân thường”
Hương, hoa, đảnh lễ cúng dường Trung Tôn.
Nam Mô Kỳ Viên Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, 1 tiếng chuông)
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT TÂM KINH.
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không  chẳng sắc khác sắc, sắc  tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế
Này Ông Xá Lợi Phất, tướng không của mọi pháp, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong chân không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có các hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật  Đa là  Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư”.
    Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “ Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát ba ha”. (1 tiếng chuông)
                  KHEN NGỢI PHẬT DI ĐÀ
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời
Mày trắng tỏa, Tu Di uyễn chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở Phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di đà Phật. (1 tiếng chuông)
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
HỒI HƯỚNG
Tụng kinh công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Hướng về Phật Pháp tỏ Đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây phương cõi Lạc bang,
Sen vàng chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa nở thấy Phật quả viên thành,
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả. (1 tiếng chuông)
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
                                       (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp,tất cả không ngại.
                                       (3 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 
 
 
 
NGHI THỨC AN VỊ PHẬT
(Buddhapratisthavidhi)
GỒM CÓ:
*Chú Tịnh Pháp giới, và Tịnh Tam Nghiệp
* Cúng hương
* Cầu Nguyện
* Khen Ngợi Phật
* Quán Tưởng Phật
* Đảnh Lễ
* Tán Dương Chi
* Tựa của Kinh Lăng Nghiêm
* Xướng và đọc sớ(nếu có)
* Pháp Ngữ Sái Tịnh
* Kinh Bát Nhã Ba La Mật
* Nguyện An Lành
* Sám Pháp Nguyện
* Hồi Hướng
* Phục Nguyện
* Tam Quy
 
MỤC ĐÍCH HÀNH TRÌ :
           Cử hành Lễ An Vị Phật ở tư gia, hay bất cứ nơi nào muốn thờ Phật.
 
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
(Thắp đèn đốt hương đứng ngay ngắn, chắp tay ngang ngực, chủ lễ mật niệm)
 
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha. (3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án  ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
 
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chống quay về Bờ Giác.(1 tiếng chuông)
 
KHEN NGỢI  PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loài
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
 
CẦU NGUYỆN
   Hôm nay đệ tử chúng con nguyện Tam Bảo thường trú trong mười phương, đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, chứng minh cho Phật tử…., lâu đời lâu kiếp, tâm tánh hôn mê, chẳng kể chánh tà, gây nhiều tội ác, tổn người hại vật, báng Phật, Pháp, Tăng, hôm nay một dạ chí thành, cung thỉnh và an vị tôn tượng Đức…., ngưỡng mong đấng Từ Bi, nhủ lòng lân mẫn, gia hộ cho Phật tử…., đương đời tội chướng tiêu trừ, căn lành thêm lớn, cùng pháp giới chúng sanh, tu Đạo Bồ Đề, trang nghiêm phước huệ, một thời đồng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát tác đại chứng minh.
 (1 tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy)
                   
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (1 tiếng chuông)
 
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Hải Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 
TÁN DƯƠNG CHI
Cành dương nước tịnh nhiệm mầu
Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau
Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh
Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn
Cam lồ rưới khắp trần gian
Lửa sân dứt sạch, sen vàng nở hoa.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát.
(3 lần,1 tiếng chuông)
 
KINH LĂNG NGHIÊM
 
NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT. (3 lần,1 tiếng chuông)
Tâm Chánh Định như như bất động
Phật Ba Thân nhân thế khó tìm
Trăm ngàn muôn kiếp đảo điên
Vô minh dứt sạch, chứng liền Pháp Thân.
Nay con nguyền chứng ngôi Chánh Giác
Độ chúng sanh như cát Sông Hằng
Thân, tâm nầy nát như trần (bụi)
Hồng ân chư Phật, chút phần báo ơn.
Cung thỉnh Thế Tôn lại chứng minh
Đời năm trược con xin vào trước
Một chúng sanh quả Phật chưa thành
Con nguyền không chứng Vô Sanh Niết Bàn.
Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi
Giúp con dứt sạch sân, si, buồn, phiền
Để sớm được lên miền Thượng Giác
Ngồi đạo Tràng bát ngát mười phương
Hư không có thể tiêu tan
Nguyện con kiên cố không hề lung lay.
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Phật
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Pháp
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Tăng
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Kim Cang Tạng Bồ Tát. (1 tiếng chuông)
  Lúc bấy giờ, từ nhục kế của Phật phóng ra hào quang trăm báu với hoa sen ngàn cánh. Trong mỗi hoa sen, có Hóa Phật ngồi, từ đảnh Hóa Phật phóng ra mười đạo hào quang trăm báu. Mỗi đạo hào quang hiện ra nhiều Thần Kim Cang Mật Tích, ông bưng núi, ông cầm xử vân vân, đứng khắp cõi hư không. Đại chúng trông thấy, vừa mừng vừa sợ, đều cầu Phật thương xót che chở, và một lòng lắng nghe Phật nói thần chú:
Án a na lệ tỳ xá đề, bệ ra bạt xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn hổ hồng, đô lô ung phấn ta bà ha. (3 lần)
XƯỚNG SỚ
(Nếu có sớ, chủ lễ xướng và đọc, nếu không bớt phần nầy)
Nam  Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo.
Chủ lễ xướng tiếp:
Như Lai tướng tốt
Không thể nghĩ bàn
Con nay dâng sớ Cầu An
Cúi xin Phật Tổ, lâm đàn chứng minh.
(1 tiếng chuông, đọc sớ xong, chủ lễ xướng tiếp:)
PHÁP NGỮ SÁI TỊNH
Cành Dương Nước Tịnh rưới gia đường
Linh thiêng thấm mát khắp mười phương
Tiêu trừ cấu uế, tai ương
Đức Từ phò hộ, tông đường bình an.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát.
(Chủ lễ  làm phép sái tịnh xong, đồng tụng)
 
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT TÂM KINH
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không  chẳng sắc khác sắc, sắc  tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế.
Này Ông Xá Lợi Phất, tướng không của mọi pháp không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong chân không, không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật  Đa là  Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư.
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “ Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát ba ha”.
 (1 tiếng chuông)
 
CÚNG NGỌ
CÚNG DƯỜNG
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Phật.
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Pháp
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Tăng.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật.
Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật.                                      
Nam Mô Thập Phương Tam Thế Nhứt Thiết Chư Phật.
Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát.
Nam Mô Già Lam Thánh Chúng Bồ Tát.
Nam Mô Lịch Đại Tổ Sư Bồ Tát.
Nam Mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát.
 

CHÚ BIẾN THỰC
Nam mô tát phạ đát tha nga đa phạ lồ chỉ đế, án tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (3 lần)
 
CHÚ BIẾN THỦY
Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha, án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô ta bà ha. (3 lần)
Thức ăn tươi tốt nầy
Trên cúng dường chư Phật
Cùng các Hiền Thánh Tăng
Dưới tất cả chúng sanh
Trong sáu nẻo ba đường
Với tâm thành hiến dâng
Cầu mong được bảo mãn. (1 tiếng chuông)
 
CHÚ PHỔ CÚNG DƯỜNG
Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng.
(3 lần)
 
PHÁP NGỮ CÚNG DƯỜNG
Con nay dâng cúng cam lồ,
Sắc hương mỹ vị biến đầy hư không,
Thành tâm tha thiết ngưỡng mong,
Đức Từ nạp thọ tấc lòng kính dâng.
Nam Mô Phổ Cúng Dường Bồ Tát. (3 lần)
Cúng Phật đã xong,
Cầu cho chúng sanh,
Trọn nhờ Pháp Phật,
Thể nhập Chân Như.
 
NGUYỆN AN LÀNH
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian luôn an lành, ngưỡng mong Bổn Sư ban an lành.
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian luôn an lành, ngưỡng mong Tam Bảo giúp an lành.
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian luôn an lành, ngưỡng mong Hộ Pháp thường gia hộ.
Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ Tát
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bố Tát.
Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
HỒI HƯỚNG
An vị công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang
Chín phẩm sen vàng, nơi hóa sanh
Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
(1 tiếng chuông chỉ chủ lễ phục nguyện)
 
LẠI NGUYỆN
 Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật tác đại chứng minh.
      Hôm nay, chúng con một dạ chí thành, trì tụng Kinh, Chú, niệm Phật công đức, cầu nguyện cho Phật tử (Tên:…., Pháp danh:….), đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, tật bịnh bình an, thân tâm thường lạc, thiên thượng nhân gian, đều thành Phật quả.(1 tiếng chuông đồng niệm)
 
Nam Mô A Di Đà Phật
 
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh,
                  tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
                                       (1 tiếng chuông lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
                  thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
                  kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông lạy 1 lạy)
 
 
 
 
 
 
 
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
(Punnya`numodana)
GỒM CÓ:
* Quán niệm
* Cúng Dường
* Xuất sanh
* Tống Thực
* Xướng Tăng Bạt
* Ba Nguyện
* Năm Quán
* Chú Tráng Bát, Xỉa Răng, Uống Nước
* Chú Kiết Trai
* Phục Nguyện
* Kinh Hành Niệm Phật
* Sám Phổ Hiền
* Tam Quy

MỤC ĐÍCH HÀNH TRÌ :

 Chư Tăng thọ trai, theo đúng nghi của Thiền Môn, để cầu phước cho người tín cúng. Người tu tại gia cũng có thể dùng nghi thức nầy để nhiếp tâm mỗi khi dùng cơm.
 
 
 
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
(Đại chúng đứng hai hàng, nghe tiếng chuông, xá 1 xá, ngồi vào ghế, nhiếp tâm đọc thầm những pháp ngữ sau đây)
 
NGỒI THẲNG
Thân ngồi ngay thẳng
Cầu cho chúng sanh
Ngồi tòa Bồ Đề
Tâm không đắm nhiễm.
Án phạ tất ba ra a ni bát ra ni ấp đa da tá ha.
 
DỞ BÁT
Bình bát của Như Lai
Con nay  được mở bày
Cúng dường cho tất cả
Xin nguyện được an vui.
Án tư ma ni tá ha.
 
BÁT KHÔNG
Nếu thấy bát không
Cầu cho chúng sanh
Hoàn toàn trong sạch
Không có buồn lo.
                  (Đổ nước tráng bát lau khô, để cơm vào)
MẶC NIỆM BÁT ĐẦY CƠM
Khi thấy bát đầy
Cầu cho chúng sanh
Vui vẻ làm nên
Tất cả việc lành.
(tay trái bưng bát cơm, tay mặt bắt ấn, dơ ngang trán, đồng tụng bài cúng dường).
 
CÚNG DƯỜNG
Cúng dường Thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật
Viên mãn báo thân Lô Xá Na Phật.
Thiên bá ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật.
Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật.
Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật.
Thập phương tam thế nhứt thiết Chư Phật.
Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát .
Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát.
Ma ha bát nhã ba la mật.
Thức ăn tinh khiết, cúng dường chư Phật, chư hiền thánh Tăng, pháp giới hữu tình, thảy đều cúng  dường. Khi đang dùng cơm, cầu cho chúng sanh, hành “ Thiền Duyệt Thực”, đầy đủ an vui.
(1 Tiếng chuông, để chén chung trong lòng bàn tay trái, tay phải gắp 7 hạt cơm để vào chung, Thầy cả niệm)
 
XUẤT  SANH
Pháp lực khó nghĩ bàn
Từ bi không chướng ngại
Cơm ít hóa thành nhiều
Thí khắp mười phương cõi
Đồng không, quỉ mẹ, con
Đại Bàng Kim Sí Điểu
Tất cả đều no đủ,
Án độ lợi ích tá ha.
(3 lần, một tiếng chuông, thị giả bưng chung, đi ra nơi cúng, và đọc)
 
TỐNG THỰC
Tất cả chúng quỉ thần
Tôi nay nguyện cúng dường
Cơm này biến khắp mười phương
Quỉ thần no đủ, nhờ nương Pháp mầu
Án mục lục lăng tá ha.
                    (7 lần, 1tiếng chuông, Thầy cả xướng)
TĂNG BẠT
Phật khuyên chư đại chúng (Chúng Tăng)
Khi ăn thực hành năm phép quán
Tán tâm nói chuyện tín thí khó tiêu
Đại chúng nghe tiếng khánh
Nhất tâm đồng niệm Phật.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng niệm)
 Nam Mô A Di Đà Phật.
 
CHÚ KHỬ ĐỘC
                           Tam Bạt Ra dà đa.
(7 lần, 1 tiếng chuông, tay bưng bát giơ ngang trán, niệm thầm)
Tay bưng bình bát (bát cơm)
Cầu cho chúng sanh
Trọn nên Pháp khí
Thọ thiên nhơn cúng.
Án chỉ rị chỉ rị phạ nhựt ra hồng phấn tra.
(3 lần, 1 tiếng chuông, để chén xuống, ăn 3 muỗng hay đũa, mỗi đũi niệm như sau)
 
 

LỜI PHÁT NGUYỆN
Muỗng thứ nhứt: Nguyện dứt tất cả đều ác.
Muỗng thứ hai:    Nguyện làm tất cả đều lành.
Muỗng thứ ba:     Nguyện độ tát cả chúng sanh.
(1 tiếng chuông, đôi đũa gác ngang bát cơm,
hay muỗng cấm giữa bình bát, niệm thầm)
 
NĂM QUÁN
Một là: Nghĩ công tu nhiều ít so với thức ăn của người hiến cúng.
Hai là: Xét kỉ đức hạnh của mình đủ hay thiếu để thọ nhận của cúng dường.
Ba là: Đề phòng tham, sân, si; vì là gốc của tội lỗi.
Bốn là: Chính vì thuốc hay để chữa bệnh thân gầy ốm yếu.
Năm là: Vì thành đạo nghiệp, nên thọ cơm nầy.
(để bát xuống, xá 1 xá rồi dùng cơm. Dùng xong, nghe 1  tiếng chuông, đại chúng đổ nước vào tráng bát và đọc)
 
CHÚ TRÁNG BÁT
Nước dùng tráng bát
Cam lồ thơm ngát
Thí các quỉ thần
Đều được no đủ.
Án ma hu ra tát tá ha.
 
CHÚ XỈA RĂNG
Khi đang xỉa răng
Cầu cho chúng sanh
Thân tâm thanh tịnh
Dứt hết phiền não.
                  Án, a mộ dà di ma lê, nhĩ phạ ca ra, tăng du đà nể, bát đầu ma câu ma ra, nhĩ phạ ca ra tăng thâu đà da, đà ra dà ra, tố di ma lệ, ta phạ ha.
 
CHÚ UỐNG NƯỚC
Phật xem một bát nước
Có hơn tám muôn trùng
Nếu không trì chú này
Như ăn thịt chúng sanh.
                  Án phạ tất ba ra ma ni tá ha.
 
CHÚ KIẾT TRAI
           Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đề, cu chi nẩm, đát điệt tha. Án chiếc lệ chủ lệ chuẩn đề, ta bà ha. (3 lần)
 
 
Người phát tâm cúng dường
Lợi ích không thể lường
Nay, vui mừng bố thí
Sau, của báu vô phương.
Dùng cơm đã xong
Cầu cho chúng sanh
Trọn nhờ Pháp Phật
Thể nhập chân như. (1 chuông)
 
LẠI NGUYỆN
Thân mặc y phục thường nhớ công người may dệt
Cơm ngày ba bữa phải nhớ nổi khổ nhà nông
Nguyện cho người cúng ruộng phước thêm nhiều
Kẻ mất siêu thăng, người còn thư thới.
 
 
NGUYỆN KHẮP
Đàn na tín cúng
Lợi lạc hiện tiền
Đầy đủ phúc duyên
Chứng nên Phật quả. (3 lần)
         Nam Mô A Di Đà Phật.
 
 
KHEN NGỢI PHẬT DI ĐÀ
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát.
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở Phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
 

TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 
 
 
 
 
 
NGHI THỨC CÚNG VONG
 
GỒM CÓ:
*Hương Linh Lễ Phật (gia chủ lạy thế)
* Thỉnh Hương Linh
* Thỉnh Đức Quán Thế Âm Tiếp Dẫn…
* Thỉnh Đức A Di Đà Tiếp Dẫn…
* Thỉnh Đức Địa tạng Tiếp dẫn
* Xướng và Đọc Điệp (nếu có)
* Cúng Cơm và Nước
* Niệm Phật
* Sám Di Đà
* Tiễn Đưa Hương Linh
* Phụng Nguyện
  MỤC ĐÍCH HÀNH TRÌ :
Cúng các hương linh, như hương linh Ông, bà, Cha, Mẹ vân vân. Cúng ở nhà hay ở Chùa cũng được.
 
 
 
 
 
 
 
NGHI THỨC CÚNG VONG
(Đồ cúng chỉnh tề, tang chủ quỳ gối, dâng hương ngang trán,
vái tên họ người chết, cắm hương xong, chủ lễ xướng)
 
HƯƠNG LINH LỄ PHẬT
Tây Phương tiếp độ hương hồn.
(1 tiếng chuông, chúng đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.
(1 tiếng chuông, chủ lễ xướng tiếp)
Vong tựu Phật tiền, đảnh lễ tam bái
(1 tiếng chuôn, chúng hòa)
Hồ quỳ. (cầm 3 cây hương, Chủ Lễ cử tán)
 
THỈNH HƯƠNG LINH
Chơn ngôn thần lực dẫn hương linh
Từ chốn U Minh về Dương Thế
An tọa linh đường để nghe kinh
Tang môn hiếu tử linh đình cúng dâng…
     Chủ Lễ bắt: Hương hoa thỉnh
     Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh
 

THỈNH ĐỨC QUÁN ÂM TIẾP DẪN
Chủ lễ thỉnh: Nhất tâm phụng thỉnh :
                 Đức Quán Âm tu hành nhiều kiếp
Với lời nguyền tha thiết độ sanh
Khắp muôn nơi cầu nguyện chí thành
Ngài ứng hiện muôn hình tế độ. (1 tiếng chuông)
Cung Vị:
                  Nam Mô Đại Từ Đại Bi tầm Thinh Cứu Khổ cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, tay cầm nhành liễu, phóng hào quang tiếp dẫn hương linh, (Tên họ:…, Pháp danh:…, sinh ngày:…, chết ngày:.., tại:…), hôm nay là Lễ….(Thọ Tang, Tứ Cửu, Bách Nhật, Tiểu Tường, Đại Tường…), hương thơm ngào ngạt, cung thỉnh hương linh (lần I), trở lại gia đình, lễ Phật nghe Kinh. (Nếu không cúng tại nhà, nên đổi chữ Gia Đường lại là Đàn Tràng)
Thỉnh hoa - Chủ Lễ tiếp:
Hương hoa thỉnh
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh. (1 tiếng chuông)
Hữu Ban: Duy nguyện:
Hồn về Dương Thế
Phách ở nơi nào?
Mau mau tỉnh ngộ
Vượt thoát trần lao.
Hương hoa thỉnh,
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh. (1 tiếng chuông).
 
THỈNH ĐỨC DI ĐÀ TIẾP DẪN
Chủ lễ thỉnh: Nhất tâm phụng thỉnh:
Sông mê rào rạt sóng tình
Biển đau lênh láng lệ mình khóc than
Muốn mau thoát khỏi trần gian
Hãy nên niệm Phật tiêu tan khổ nàn.
Cung Vị:
             Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, tay bưng kim đài, tiếp dẫn hương linh (Tên họ:…, Pháp danh:…, sinh ngày:…, chết ngày:.., tại:…), hôm nay là Lễ…, hương thơm ngào ngạt, cung thỉnh hương linh (lần II), trở lại gia đình, lễ Phật nghe Kinh.
Chủ Lễ tiếp: Hương hoa thỉnh,
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh. (1 tiếng chuông)
Tả Ban: Duy Nguyện:
Thân cử bước thênh thang
Tâm tự tại an nhàn
Tới lui không vướng mắc
Vượt thoát cảnh trần gian.
Hương hoa thỉnh
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh. (1 tiếng chuông).
 
THỈNH ĐỨC ĐỊA TẠNG TIẾP DẪN
Chủ lễ thỉnh: Nhất tâm phụng thỉnh:
U Minh, dứt hết ngục hình
Dương gian, độ thoát chúng sanh không còn
Bồ Đề nguyện lớn vuông tròn
Chứng nên Phật quả không còn tử, sanh.
Cung vị:
Nam Mô U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát, tay cầm tích trượng, phóng hào quang tiếp độ hương linh (Tên họ:…, Pháp danh:…, sinh ngày:…, chết ngày:.., tại:…), hôm nay là Lễ…, hương thơm ngào ngạt, cung thỉnh hương linh (lần 3), trở lại gia đình, lễ Phật nghe Kinh.
Chủ lễ tiếp: Hương hoa thỉnh
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh. (1 tiếng chuông).
Hữu ban: Duy Nguyện:
Được nương nhờ oai thần chư Phật
Nay về đây thính Pháp văn Kinh
Hồn thiêng thụ hưởng linh đình
Nén hương, bát nước, ân (thâm) tình cúng dâng.
Hữu ban tiếp: Hương hoa thỉnh
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh. (1 tiếng chuông).
Đại chúng đồng tụng:
Ba lần cung thỉnh
Hương linh đã về
Hồn thiêng an tọa linh sàn
Tang môn hiếu tử thiết đàn kính dâng.
Tả Ban: Tang chủ lễ nhị
Chúng hòa: bái. (2 tiếng chuông).
Hữu ban tiếp: Hồ Quỳ.
 
XƯỚNG VÀ ĐỌC ĐIỆP (NẾU CÓ)
Chủ lễ xướng:
Âm dương đồng nhứt lý
Sanh tử chia đôi đàng
Điệp tang họp thời đọc
Cầu chư Phật chứng minh. (1 tiếng chuông)
(Đọc điệp xong, cúng cơm. Tang chủ gắp thức ăn, mỗi thứ một chút, để vào bát cơm lưng, gác ngang đôi đũa, chắp tay vái cúng).
 
CÚNG CƠM VÀ NƯỚC
Đồng tụng:
Nam Mô Đa Bảo Như Lai
Nam Mô Bảo Thắng Như Lai
Nam Mô Diệu Sắc Thân Như Lai
Nam Mô Quảng Bát Thân Như Lai
Nam Mô Ly Bố Úy Như Lai
Nam Mô Cam Lồ Vương Như Lai
Nam Mô A Di Đà Như Lai. (3 lần)
        Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ đế. Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng. (3 lần, 1 tiếng chuông).
 
Hôm nay, dâng cúng cơm nầy
Sắc, hương, mỹ, vị biến đầy hư không
Thành tâm tha thiết ngưỡng mong
Hương linh nạp thọ, tấc lòng nhớ thương.
Nam Mô Mỹ Thanh trai Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông).
Chủ lễ xướng:  Hiến trà. (rót trà cúng, lần thứ nhứt).
Hữu ban tiếp: Cúc cung lễ nhị
Chúng hòa: Bái. (2 tiếng chuông).
Tả ban: Hồ Quỳ. (1 tiếng chuông, đồng tụng)
              Nam Mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát điệt tha. Án, tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra tô rô, ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
 Hữu ban xướng:
Ruột se thắt, âm dương xa cách
Ngậm ngùi thay, hồn phách về đâu?
Chủ lễ xướng:  Hiến trà (rót trà cúng, lần thứ nhì).
Tả ban tiếp: Cúc cung lễ nhị
Chúng hòa: Bái. (2 tiếng chuông, đồng tụng)
             Nam Mô Cam Lồ Vương Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông).
Hữu Ban Xướng:
Cam lồ một giọt linh thiêng
Tiêu trừ đói khát triền miên
Mật ngôn mầu nhiệm, hồn thiêng an lành.
Chủ Lễ xướng:  Hiến trà. (rót trà cúng, lần thứ ba).
Tả Ban tiếp: Cúc cung lễ nhị
Chúng hòa: Bái. (2 tiếng chuông).
Hữu Ban xướng: Hồ Quỳ. (1 tiếng chuông, đồng tụng).
Án, nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng.
                                           (3 lần, 1 tiếng chuông)
Hữu Ban xướng:
Hồn khắp thoát dương gian
Chốn U Minh mờ hiện
Âm dương chia đôi đàng
Bát hương, đôi nến gần tàn
Cúi xin chư Phật dẫn đàng hồn đi.
(1 tiếng chuông, đồng niệm:)

SÁM DI ĐÀ
Muốn đi có một đường nầy
Nhứt tâm niệm Phật khó gì thoát ra
Vậy nên phải niệm Di Đà
Hồng danh sáu chữ thiệt là rất cao
Hay trừ tám vạn trần lao
Tham thiền quán tưởng pháp nào cũng thua.
Di Đà xưa cũng làm vua
Bỏ ngôi bỏ nước vô chùa mà tu
Xét ra từ kiếp đã lâu
Hiệu là Pháp Tạng tỳ kheo đó mà
Trong khi ngài mới xuất gia
Bốn mươi tám nguyện phát ra một lần.
Nguyện nào cũng lắm oai thần
Nguyện nào cũng trọng về phần độ sanh
Vì thương thế giới bất bình
Nên chi đầu Phật mà đành bỏ ngôi
Thầy là Bảo Tạng Như Lai
Bạn là Bảo Hải tức Ngài Thích Ca.
Thích Ca nguyện độ Ta Bà
Di Đà nguyện mở cửa nhà Lạc Bang
Mở Ao Chín Phẩm sen vàng
Xây Thành Bá Bửu đổ đàng thất trân
Lưu ly quả đất sáng ngần
Lầu châu cát ngọc mười phần trang nghiêm
Hoa trời rưới cả ngày đêm
Có cây rất báu, có chim rất kỳ
Lạ lùng cái cảnh Phương Tây
Mười phương cảnh Phật, cảnh nào cũng thua
Phong quang vui vẻ bốn mùa
Nước reo Pháp Phật, gió khuya nhạc trời.
Di Đà có thệ một lời
Mở ra cõi ấy tiếp người vãng sanh
Mười phương ai phát lòng thành
Nhất tâm mà  niệm Hồng Danh của Ngài
Hằng ngày trong lúc hôm mai
Niệm từ mười tiếng đến vài ba trăm
Khi đi, khi đứng, khi nằm
Chuyên trì niệm Phật lòng chăm phát nguyền
Nguyện sanh về chín phẩm liên
Là nơi Cực Lạc ở miền Tây Phương
Đến khi thọ mạng vô thường
Thì Ngài phóng ngọn hào quang rước liền
Biết bao phước đức nhơn duyên
Đã về Cực Lạc còn phiền não chi
Sự vui trời cũng chẳng bì
Đêm đêm thong thả, ngày ngày vui chơi
Sống lâu kiếp kiếp đời đời
Không già không chết không dời đi đâu.
                                                   (1 tiếng chuông)
 
KHEN NGỢI PHẬT DI ĐÀ
A Di Đà Phật thân  sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn  mươi  tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên  giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở Phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật. (Mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
 

CHÚ VÃNG SANH TỊNH ĐỘ

(Khi đang tụng chú vãng Sanh, nếu có sớ nên đốt)

Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa, tất đam bà tỳ, a di rị đa, tỳ ca lan đế, a di rị đa, tỳ ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha.
 (3 lần, 1 tiếng chuông)
 
TIỄN ĐƯA HƯƠNG LINH
(Chỉ Chủ Lễ xướng)
 
Hồn về Cực Lạc Tây Phương
Ngát hương sen nở, hào quang sáng ngời
Chắp tay, vĩnh biệt cõi đời
Quán Âm, Thế Chí đón mời hồn đi.
 
 Chủ Lễ tiếp:
LẠI NGUYỆN
Hồn siêu nơi cõi Tịnh
Nghiệp dứt chốn trần ai
Hoa sen chín phẩm vừa khai
Phật bèn thọ ký cho ngay nhứt thừa
Cầu xin chư Phật tiếp đưa
Hồn về Cực Lạc say sưa Pháp mầu
Nguyện cho hương linh…
Sớm về cõi Phật
Hưởng cảnh thanh bình
Pháp giới chúng sinh
Trọn thành Phật quả.
                    (1 tiếng chuông, đại chúng đồng niệm)
               Nam Mô A Di Đà Phật.
 
Hữu Ban xướng: Tang Chủ tựu vị lễ tứ
Chúng hòa: Bái.
(4 tiếng chuông, tang chủ lạy 4 lạy, lui ra)
 
 
 
 
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
(Sattva abhayada`na vidhi)
GỒM CÓ:
* Chú tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
* Cúng Hương
* Cầu Nguyện
* Khen Ngợi Phật
* Quán Tưởng Phật
* Đảnh Lễ
* Tán Hương Cúng Phật
* Chú Đại Bi
* Kệ Giải Nghiệp
* Niệm Phật
* Chú Nguyện
* Hồi Hướng
* Phục Nguyện
* Hồi Hướng
* Phục Nguyện
* Tam quy.
 
MỤC ĐÍCH HÀNH TRÌ:
Thả các loài súc vật để chúng được tự do. Để cầu phước cho người hiện tiền được sống lâu, và người quá vãng được siêu thăng cõi Phật.
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
(Ứng dụng nghi thức nầy, khi có nhiều người tham dự. Trong trường hợp đặc biệt, chỉ mặc niệm bài “ CHÚ NGUYỆN” 3 lần, thả ngay. Phúc báo cũng vô lượng vô biên).
 
(Thắp đèn đốt hương đứng ngay ngắn, chắp tay nganh ngực, chủ lễ mật niệm).
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha. (3 lần)
 
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
 
CÚNG HƯƠNG
Giới Hương, Định Hương và Huệ Hương
Giải Thoát, Giải Thoát, Tri Kiến Hương
Sáng ngời, chiếu khắp mười phương
Hiện tiền Tam Bảo, năm hương cúng dường.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
 
CẦU NGUYỆN
Hôm nay, chúng con phụng trì di giáo Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, một dạ chí thành, thiết lễ phóng sanh, ngưỡng mong Tam Bảo chúng minh và gia hộ cho: (tên người mua sinh vật), đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp  chướng tiêu tan, mạng vị bình an, thân tâm thường lạc, và tất cả chúng sanh, một thời đồng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nam Mô Tiêu Tai Duyên Thọ Dược Sư Phật tác đại chứng minh. (3 lần, 1 tiếng chuông xá 1 xá, đứng dậy)
 
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loài
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận. (1 tiếng chuông)
 
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười  phương Phật hiện hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
 
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
                                   (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện  Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 

TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT
Lư hương vừa ngún hương trầm
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh.
                  Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát.
                                          (3 lần, 1 tiếng chuông)
 
 
CHÚ ĐẠI BI
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm  Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa, phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô tô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ xướng)
 
KỆ GIẢI NGHIỆP
Chúng sanh đấy có bấy nhiêu
Lắng nghe lấy những điều dạy răn
Các ngươi trước lòng trần tục lắm
Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
Bấy lâu chẳng biết tu trì
Gây bao tội ác lại về mình mang.
Sống đọa đầy chết thường đau khổ
Lông, da, sừng có đỡ được đâu
Dù là bay trước lặn sau
Lưới dây tên bắn lưỡi câu thả mồi
Tát cạn bắt cùng hơi hun độc
Lúc đó dù kêu khóc ai thương
Nằm trên chốc thớt lạ thường
Hồn còn phảng phất nấu rang xong rồi.
Muôn phần chết nay ngươi cầm chắc
May sao nhờ các bậc thiện nhân
Cứu cho ngươi được thoát thân
Đến đây lại được nhờ ân Pháp mầu.
Vậy ngươi kịp hồi đầu quy Phật
Cùng dốc lòng quy Pháp quy Tăng.
Chúng sanh quy y Phật
Chúng sanh quy y Pháp
Chúng sanh quy y Tăng. (3 lần, 1 tiếng chuông)
Chúng sanh quy y Phật, Không đọa địa ngục.
Chúng sanh quy y Pháp, Không đọa ngạ quỷ.
Chúng sanh quy y Tăng, Không đọa bàng sanh.
                                          (3 lần, 1 tiếng chuông)
 
 
Chúng sanh quy y Phật rồi
Chúng sanh quy y Pháp rồi
Chúng sanh quy y Tăng rồi. (3 lần,1 tiếng chuông)
 
Quy rồi tội chướng sạch băng
Trí khôn sáng tỏ tưng bừng khắp nơi
Pháp tâm tu, sau rồi được hưởng
Về  Phương Tây sung sướng đời đời
Lên tòa sen hưởng thảnh thơi
Không hề luân chuyển yên vui tháng ngày.
Xin đại chúng ra tay cứu khổ
Phát tâm cầu Phật độ chúng sanh
Cùng nhau dốc một lòng thành
Cầu cho thoát khỏi trong vòng trầm luân.
(1 tiếng chuông)
 
KHEN NGỢI PHẬT DI ĐÀ
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bố Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở Phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức từ Bi nhiếp thọ.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô Đại  Bi Quán thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bố Tát.
 
CHÚ NGUYỆN
(Mang sinh vật ra ngoài, chủ lễ mật niệm)
Nguyện cho (các) ngươi (chim, cá, rùa…), đời đời tội diệt phước sanh, bỏ thân nầy, đời sau gặp gỡ Ngôi Tam Bảo tu hành, chứng quả Bồ Đề. Sau khi đắc đạo rồi, ta sẽ độ cho ngươi được giải thoát. Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát cứu thoát chúng sanh, kiếp mãn viên trần, chứng vi viên tướng, Bồ Đề Đạo độ chúng sanh.
(Niệm 3 lần, chủ lễ thả sinh vật. Trở lại bàn Phật, để Hồi Hướng).
 
HỒI HƯỚNG
Phóng sinh công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát, cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang
Chín phẩm sen vàng, nơi hóa sanh
Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả. (1 tiếng chuông)
 
LẠI NGUYỆN
Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật tác đại chứng minh.
      Hôm nay, chúng con một dạ chí thành, trì tụng Kinh, Chú, niệm Phật công đức, cầu nguyện cho Phật tử (Tên:.... Pháp danh:…), đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, tật bịnh bình an, thân tâm thường lạc, gia đình thịnh đạt, hưởng cảnh an nhàn, thiên thượng nhân gian, đều thành Phật quả.
(1tiếng chuông, đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật
 
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 
 

NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
(A`va`ha – vi va`ha vidhi)
GỒM CÓ:
* Chú Tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
* Cúng Hương
* Cầu Nguyện
* Khen Ngợi Phật
* Quán Tưởng Phật
* Đảnh Lễ
* Tựa Kinh Lăng Nghiêm
* Lạy Báo Ân
* Bạch Phật
* Pháp Ngữ Sái Tịnh
* Lễ Trao Nhẫn
a. Năm Điều Chồng đối với Vợ
b. Năm Điều Vợ đối với Chồng
* Nguyện An Lành
* Tam Quy.
MỤC ĐÍCH HÀNH TRÌ: Cử hành lễ cưới, cho đúng với luật lệ hiện hành.
 
 
 
 
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
(Bên trai bên gái ngồi hay đứng cân phân hai bên,
cô dâu chú rể đứng giữa, chủ lễ bắt đầu:)
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn,
chắp tay ngang ngực, chủ lễ mật niệm).
 
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.(3 lần)
 
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám.(3 lần)
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán, chủ lễ niệm bài cúng hương).
CÚNG HƯƠNG
Nguyện dâng hương mầu nầy
Cúng dường tất cả Phật
Tôn Pháp, chư Bồ Tát
Thinh Văn và Duyên Giác
Cùng các bậc Thánh Hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Khắp xông mười phương cõi
Tỏa ngát các chúng sanh
Đều phát tâm Bồ Đề
Xa lìa các vọng nghiệp
Trọn nên Đạo Vô Thượng.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần)
 
CẦU NGUYỆN
Nay có Phật tử (tên họ:…, Pháp danh:…), cung đối Phật tiền, phát nguyện kết hôn với(tên họ:…, Pháp danh:…)
Chúng con một dạ chí thành, ngưỡng cầu tam Bảo từ bi gia hộ cho hai họ được Loan Phụng hòa minh, sắt cầm duyên hiệp, thấm nhuần Pháp Nhủ Hồng Ân, thọ hưởng Cam Lồ Cát Khánh. Ngưỡng mong Phật trí cao vời từ bi gia hộ.
 
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loài
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
(1 tiếng chuông,xá 1 xá)
 
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười  phương Phật hiện hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (1 tiếng chuông)
 
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lạc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện  Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 
BÀI TÁN DƯƠNG CHI
Cành dương, nước tịnh rưới gia đường
Linh thiêng, thấm mát khắp mười phương
Tiêu trừ cấu uế, tai ương
Đức Từ phò hộ, Tông Đường bình an.
Nam Mô Thanh Lương Địa  Bồ Tát Ma Ha Tát.
 
CHÚ ĐẠI BI
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
                                          (3 lần, 1 tiếng chuông)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm  Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dưng,  tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà,ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa, phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô tô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì , ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
                                                  (1 tiếng chuông)
 
CHÚ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ
Cúi đầu quy y phép Tô Tất Đế
Thành tâm đảnh lễ đấng Thất Cu Chi
Đệ tử xưng tán đức Đại Chuẩn Đề
Nguyện đức Từ Bi xót thương gia hộ.
Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đề, cu chi nẩm, đát điệt tha. Án, chiếc lệ chủ lệ, chuẩn đề ta bà ha. (3 lần)
 
NGUYỆN AN LÀNH
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian luôn an lành, ngưỡng mong Bổn Sư ban an lành.
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian luôn an lành, ngưỡng mong Tam Bảo giúp an lành.
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian luôn an lành, ngưỡng mong Hộ Pháp thường gia hộ.
 
Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ Tát.
                           (mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
LẠY BÁO ÂN
(Nếu hai họ đã làm lễ tạ Song Đường ở nhà rồi, phần nầy nên bỏ qua, nếu không, chủ lễ xướng 4 câu sau đây cho cô dâu chú rể lạy báo ân).
Chí tâm đảnh lễ, thiên địa phú tải chi ân, nhựt nguyệt chiếu lâm chi đức, nhứt bái. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, chánh phủ ủng hộ chi ân, thủy thổ thành thục chi đức, nhứt bái. (1 tiếng chuông lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, sư trưởng giáo huấn chi ân, phụ mẫu sanh thành chi đức, nhứt bái. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, đại thiện tri thức chi ân, bằng hữu tương giao chi nghĩa nhứt bái. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 
BẠCH PHẬT
Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo.
                                          (3 lần, 1 tiếng chuông)
Chỉ chủ lễ quỳ gối và xướng tiếp:
Như Lai tướng tốt
Không thể nghĩ bàn
Con nay tác bạch cầu an
Cúi xin Phật Tổ, lâm đàn chứng minh.
                  (1 tiếng chuông, xá 1 xá)
Chủ lễ tiếp:
Ngưỡng khải Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật – nay có Phật tử (tên họ…, pháp danh:…), cung đối Phật tiền, phát nguyện kết hôn với (tên họ…, pháp danh:…), cần cầu con Tỳ kheo Thích… làm chủ lễ. Ngưỡng mong Đức Từ gia hộ cho hai họ được: Loan Phụng hòa minh, sắt cầm duyên hiệp, thấm nhuần Pháp Nhủ Hồng Ân, thọ hưởng Cam Lồ Kiết Khánh. Ngưỡng mong Phật trí cao vời từ bi gia hộ.
 
Nam Mô Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật tác đại chứng minh. (3 lần, 1tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy)
 
PHÁP NGỮ SÁI TỊNH
Quan Âm Bồ Tát rất nhiệm mầu
Thanh Tịnh Trang Nghiêm nhiều kiếp tu
Khắp xứ người cầu đều toại nguyện
Biển trần qua lại độ chúng sanh.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Linh Cảm Ứng Quan Thế Âm Bồ Tát.(3 lần)
 
(Chủ lễ làm phép sái tịnh hai chiếc nhẫn và cho cô dâu chú rể)
LỄ TRAO NHẪN
(Chủ lễ nên giảng ý nghĩa chữ “ trao nhẫn”. Sau khi, cô dâu chú rể phát nguyện và trao nhẫn cho nhau xong, nên có lời khuyên của cha mẹ bên trai, gái, người giám hộ, hay lời chúc mừng của quan khách).
 
NĂM ĐIỀU CHỒNG ĐỐI VỚI VỢ
Chú rể tay cầm quyển kinh, hướng về Phật, và đọc lớn những điều sau đây:
Tôi (tên họ)…, nguyện suốt đời, vâng giữ 5 điều sau đây, để xây dựng hạnh phúc gia đình với em (tên họ)…
ĐIỀU I: Con nguyện luôn luôn tín cẩn và yêu thương vợ.
ĐIỀU II: Con nguyện bàn thảo mọi việc với vợ trong tinh thần tôn trọng và hòa thuận.
ĐIỀU III: Con nguyện chia sẽ với vợ trong việc săn sóc con cái, và chăm nom gia đình.
ĐIỀU IV: Con nguyện đời đời sống bên nhau, bằng tình thương chân thật, bằng trí huệ sáng suốt, và bằng đức tánh kiên nhẫn.
ĐIỀU V: Con nguyện sống đời sống hằng ngày sao cho xứng đáng với Đạo Đức của Ông Bà và nghĩa vụ của Tổ Quốc đã đặt hy vọng vào con.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
 
NĂM ĐIỀU VỢ  ĐỐI VỚI CHỒNG
 
Cô dâu  tay cầm quyển kinh, hướng về Phật, và đọc lớn những điều sau đây:
Tôi (tên họ)…, nguyện suốt đời vâng giữ 5 điều sau đây, để xây dựng hạnh phúc gia đình với anh (tên họ)…
ĐIỀU I: Con nguyện luôn luôn ân cần và chiều chuộng chồng.
ĐIỀU II: Con nguyện luôn luôn hòa nhã thảo luận công việc với chồng.
ĐIỀU III: Con nguyện bảo vệ, chăm lo gia đình một cách chu đáo.
ĐIỀU IV: Con nguyện đời đời sống bên nhau, bằng tình thương chân thật, bằng trí huệ sáng suốt, và bằng đức tánh kiên nhẫn.
ĐIỀU V: Con nguyện sống đời sống hằng ngày sao cho xứng đáng với Đạo Đức của Ông Bà và tiếp nối dòng họ của Tổ Tiên đã đặt hy vọng vào con.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
(Phát nguyện xong, cô dâu và chú rể trao nhẫn cưới cho nhau)
 
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1tiếng chuông,lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 

LỄ PHẬT ĐẢN
GỒM CÓ:
* Cúng Hương
* Cầu Nguyện
* Khen Ngợi Phật
* Quán Tưởng Phật
* Đảnh Lễ
* Bài Tụng Khánh Đản
*Xưng Tán Hồng Danh
* Kinh Bát Nhã Ba La Mật
* Tam Quy
* Hồi Hướng
 
MỤC ĐÍCH HÀNH TRÌ:
Cử hành Đại Lễ Phật Đản hằng năm.
 
   
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ niệm bài cúng hương).
 
CÚNG HƯƠNG
                    Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về Bờ Giác.
Nam Mô Hương Cúng Dường, Lâm Tỳ Ni Thị Hiện Ta Bà Giáo Chủ, Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật.
 (3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
 

CẦU NGUYỆN
Nay chính là ngày Đức Thích Tôn giáng thế để hóa độ chúng sanh. Chúng con một dạ vui mừng, cúng dường kỷ niệm. Kính dâng một nén tâm hương, ba nghiệp tinh cần, cúi đầu đảnh lễ, nguyện y lời Phật dạy, tụng kinh niệm Phật chuyên cần, quyết theo Phật Pháp làm lành, báo đền công ơn hóa độ, Tâm Bồ Đề kiên cố, chí tu học vững bền, cùng pháp giới chúng sanh, nghiệp chướng tiêu trừ, căn lành viên mãn, mau chứng quả Vô Thượng Bồ Đề. Ngưỡng mong Phật Tổ cao vời, từ bi gia hộ.
Nam Mô Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy)
 
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loài
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
                    (1 tiếng chuông,xá 1 xá)
 
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười  phương Phật hiện hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng tụng)
 
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Liên hoa đài thượng, bá bảo quang trung, thiên bá ức hóa thân, Ta Bà Giáo Chủ, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Đâu Xuất giáng trần, Lâm Tỳ Ni thị hiện, Ta Bà Giáo Chủ, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
                                   (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, cam giá nguyên lưu, ứng thân hiện thoại,Ta Bà Giáo Chủ, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT
Lư hương vừa ngún hương trầm
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết tha
Ngưỡng mong chư Phật thương mà chứng minh.
         Nam Mô hương cúng dường Bồ Tát ma ha tát. (3 lần)
 
CHÚ ĐẠI BI
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần, 1 tiếng chuông)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm  Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dưng,  tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà,ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa, phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô tô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì , ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
(1 tiếng chuông)
 
BÀI TỤNG LỄ PHẬT ĐẢN
                  Đệ tử hôm nay
Gặp ngày Khánh Đản
Một dạ vui mừng
Cúi đầu đảnh lễ
Thập Phương Tam Thế
Điều Ngự Như Lai
Cùng Thánh, Hiền, Tăng. (1 tiếng chuông)
Chúng con cùng pháp giới chúng sanh
Bởi thiếu căn lành
Thảy đều sa đọa
Tham, sân chấp ngã
Quên hẳn đường về
Tình ái si mê
Tù trong lục đọa
Trăm dây phiền não
Nghiệp báo không cùng.
Nay nhờ Phật Tổ Năng Nhơn
Dũ lòng lân mẫn
Không nỡ sinh linh thiếu phước
Nặng kiếp luân hồi
Đêm dày tâm tối
Đuốc tuệ rạng soi
Nguyện cứu muôn loài
Pháp dùng phương tiện
Ta bà thị hiện
Thích chủng thọ sanh
Thánh Ma Gia mộng ứng điềm lành
Vua Tịnh Phạn phước sinh con thảo
Ba mươi hai tướng tốt
Vừa mười chín tuổi xuân
Lòng từ ái cực thuần
Chí xuất trần quá mạnh
Ngai vàng quyết tránh
Tìm lối xuất gia
Sáu năm khổ hạnh rừng già
Bảy thất nghiêm tinh thiền tọa
Chứng thành đạo quả
Hàng phục ma binh
Ba cõi đều dậy tiếng hoan nghênh
Muôn vật thảy nhờ ơn tế độ.
Chúng con nguyền
Dứt bỏ dục tình ngoan cố
Học đòi đức tánh quang minh
Cúi xin Phật Tổ giám thành
Từ Bi gia hộ
Chúng con cùng pháp giới chúng sanh
Chóng thành Đạo Cả.(1 tiếng chuông)
Chỉ chủ lễ xướng :
 
XƯNG TÁN HỒNG DANH
Thích Ca thị hiện Ta Bà
Trời, người hớn hở dâng hoa cúng dường
Báu thân rực rỡ phi thường
Mâu Ni là đấng Pháp Vương cứu đời.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng tụng)
Nam Mô Ta Bà Thế Giới, Tam Giới Đạo Sư, Tứ Sinh Từ Phụ, Nhơn Thiên Giáo Chủ, Thiên Bá Ức Hóa Thân, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(Niệm Hồng Danh Đức Bổn Sư nhiều hay ít, tùy theo số người tắm Phật)
 (Các Hồng Danh sau đây niệm 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Trí văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát.
 
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT.
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.
Này Ông xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.
Này Ông xá Lợi Phất, tướng không của mọi pháp không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong” chân không” , không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chành giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư”.
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “ Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”.
                                                                         (1 tiếng chuông)
 
 
QUY Y TAM BẢO
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)
 
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành,
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
 
 
 
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
(Duhkha vimukti)
 GỒM CÓ:
* Chú tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
* Cúng Hương
* Cầu Nguyện
* Khen Ngợi Phật
* Quán Tưởng Phật
* Đảnh Lễ
* Tán Dương Chi
* Chú Đại Bi
* Xướng và Đọc Sớ
* Bài Cúng Sao Giải Hạn
*Chí Tiêu Tai
* Chú Dược Sư
* Sám Tiêu Tai Giải Hạn
* Nguyện an Lành
* Hồi Hướng
* Phục Nguyện
* Tam Quy
 
MỤC ĐÍCH HÀNH TRÌ:
Cầu nguyện cho khỏi xui xẻo, tai nạn, và những điều xấu trong năm. Thêm vào đó, người bị sao hạn bố thí, phóng sanh, và làm nhiều việc lành, lợi mình lợi người, bỏ hết tham, sân, si sẽ được tai qua nạn khỏi.
 
 
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
(Thắp đèn đốt hương đứng ngay ngắn,
chắp tay ngang ngực, chủ lễ mật niệm).
 
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha. (3 lần)
 
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)
 
CÚNG HƯƠNG
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán, chủ lễ niệm bài cúng hương)
         Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về Bờ Giác.  (1 tiếng chuông)
 
CẦU NGUYỆN
Đệ tử chúng con, nhân ngày….(Nguyên Đán), một dạ chí thành, thiết lễ Cầu An, Nhương Tinh Giải hạn, ngưỡng nguyện Đức Bổn Sư Thích ca Mâu Ni Phật, cùng các vị Bồ Tát, cùng Thánh, Hiền,Tăng từ bi gia hộ cho phật tử:…, đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu trừ, thường được an lành, xa lìa khổ ách, và cùng pháp giới chúng sanh, một thời đồng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ Tát tác đại chứng minh. (3 lần,tiếng chuông, xá 1 xá)
 

KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loài
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận.
 
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười  phương Phật hiện hào quang sáng ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
 
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lạc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
 (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện  Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 
TÁN DƯƠNG CHI
Cành dương nước tịnh nhiệm mầu
Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau
Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh
Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn
Cam lồ rưới khắp trần gian
Lửa sân dứt sạch, sen vàng nở hoa
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát.
 

CHÚ ĐẠI BI
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát. (3 lần, 1 tiếng chuông)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm  Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.Nam mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dưng,  tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà,ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa, phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô tô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha.Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa na đa ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (1 tiếng chuông)

XƯỚNG SỚ

(Nếu có sớ, chủ lễ xướng rồi đọc, nếu không bớt phần nầy)
Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo.(3 lần)
Như Lai tướng tốt
Không thể nghĩ bàn
Con nay, dâng sớ cầu an
Cúi xin Phật Tổ, lâm đàn chứng minh. (1 tiếng chuông)
 
BÀI CÚNG SAO GIẢI HẠN
Chí Tâm Qui Mạng Lễ : Nam, Bắc, Đông, Tây, Trung Ngũ Đẩu, Châu Thiên Thất Thập Nhị Cung Thần, Nhị Thập Bát Tú Liệt Phương Ngung, Cửu Diệu Thất Tinh Chư Thánh chúng, Đại Bi Đại Nguyện, Đại Thánh chúng, Đại Thánh Đại Từ, Phật Quang Chủ Chiếu, Bổn Mạng Nguyên Thần, Đại Hạn, Tiểu Hạn Tinh Quân, Đại Vận, Tiểu Vận Tôn Thần, La, Kế, Nguyệt, Bột, Bàn Lâm Chủ Chiếu, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Đức Tinh Quân, Nguyện Tiêu Tai Chướng, Nguyện Giáng Kiết Tường, Tiêu Tai Chướng, Nguyện Giáng Kiết Tường, Tiêu tai Xí Thạnh Quang Vương Phật.
(3 lần, mỗi lần1 tiếng chuông).
 
CHÚ TIÊU TAI KIẾT TƯỜNG
Nam mô tam mãn đa, mẫu đà nẩm, a bát ra để, hạ đa xá, ta nẳng nẩm, đát điệt tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ ha.
(3 lần,1 tiếng chuông).
 
CHÚ DƯỢC SƯ
Nam mô bạt dà phạt đế bệ sát xã lu lô thích lưu ly, bát lặc bà hát ra xà dã, đát tha yết đa da, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế xoa ha.
(3 lần,1 tiếng chuông)
Giải kiết, giải kiết, giải oan kiết,
Nghiệp chướng bao đời đều giải hết,
Rửa sạch lòng trần, phát tâm thành kính,
Đối trước Phật đài, cầu xin giải kiết.
Dược Sư Phật, Dược Sư Phật.
Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật.
Tùy tâm mãn nguyện Dược Sư Phật.
Nam mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật.
(3 lần,1 tiếng chuông)
 
SÁM TIÊU TAI GIẢI HẠN
Con nay dốc hết tâm thành
Kính lạy Đức Phật Xí Thạnh Quang Vương
Nếu con sắp bị tai ương
Cúi xin chư Phật đoái thương giải nàn:
La Hầu hay bị tai oan
Tháng Giêng, tháng Bảy vô vàn điêu linh
Con nguyền học Đạo sửa mình
Sân si dứt sạch, Phúc Tinh phò trì.
Thổ Tú, Thủy Diệu sầu bi
Tháng Tư, tháng Tám thiếu gì nhiễu nhương
Cúi xin Phật Tổ xót thương (1 tiếng chuông)
Giúp cho con được gia đường bình yên.
Thái Bạch hết sạch cửa nhà
Tháng Năm tan tác vào ra bực mình
Khẩn cầu Cửu Diệu Thất Tinh
Cứu con thoát khỏi điêu linh cửa nhà.
Thái Dương tiền bạc kiếm ra
Tháng Mười, tháng Sáu, cửa nhà bình an.
Con hằng tâm nguyện vái van
Cầu cho con được an nhàn thảnh thơi.
Vân Hớn dù có nói chơi
Tháng Hai, tháng Tám bị lời thị phi
Con nguyền học Đạo Từ Bi
Nhớ lời Phật dạy, khắc ghi vào lòng.
Kế Đô gia thất long đong
Tháng Ba, tháng Chín, xa chồng xa cha
Khấn cầu Đức Phật Thích Ca,
Quán Âm phò hộ cửa nhà bình yên.
Thái Âm, mười một truân chuyên
Tháng Chín tốt đẹp, của tiền khá ra
Khuyên người theo chánh bỏ tà
Trau giồi đức hạnh, mới là chân tu.
Mộc Đức, bổn mạng không xui
Tháng chạp, phúc lộc, hưởng vui, thanh bình
Gắng lo bố thí, phóng sinh
Để cho hết thảy gia đình bình an.
Nguyện cho Đại Hạn tiêu tan
Tiểu Hạn hết sạch, an nhàn thảnh thơi
Nguyện cho con được đời đời
Hành Bồ Tát Đạo, cứu người lầm than.
                                                  (1 tiếng chuông)
 
NGUYỆN AN LÀNH
Nguyện ngày an lành, đêm an lành, ngày đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian luôn an lành, ngưỡng mong Bổn Sư ban an lành. (1 tiếng chuông)
Nguyện ngày an lành, đêm an lành, ngày đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian luôn an lành, ngưỡng mong Tam Bảo giúp ban an lành. (1 tiếng chuông)
Nguyện ngày an lành, đêm an lành, ngày đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian luôn an lành, ngưỡng mong Hộ Pháp giúp thường gia hộ. (1 tiếng chuông)
Nam Mô Dược Sư lưu Ly Quang Vương Phật.
Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ Tát.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
 
HỒI HƯỚNG
Cầu an công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Hướng về Phật Pháp tỏ Đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây phương cõi Lạc bang,
Sen vàng chín phẩm là cha mẹ,
Hoa nở thấy Phật quả viên thành,
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
 
LẠI NGUYỆN
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát tác đại chứng minh.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
Tam Bảo chứng minh oai thần hộ niệm, hôm nay đệ tử chúng con, một dạ chí thành, trì tụng kinh chú, xưng tán Hồng Danh, Nhương Tinh Giải Hạn, cầu nguyện cho Phật tử:…, Pháp danh:…, đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, tật bệnh bình an, thân tâm thường lạc, gia đình thịnh đạt quyến thuộc khương ninh, pháp giới chúng sanh trọn thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.
 
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
 (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(3 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 
PHẦN PHỤ ĐÍNH
* 12 Đại Nguyện của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát
* 48 Lời Nguyện Của Đức Phật A Di Đà
* Các bài sám
* Khuyến Tu
* Các Ngày Vía
* Những Ngày Trai
 
 
  
MƯỜI HAI ĐẠI NGUYỆN
CỦA ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
 
NGUYỆN THỨ NHỨT:
Khi thành Bồ Tát
Danh hiệu tôi: Tự Tại quán Âm
Mười hai lời nguyện cao thâm
Nghe tiếng cứu khổ
Quán Âm thề nguyền. (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 
NGUYỆN THỨ HAI:
Không nài gian khổ
Quyết một lòng cứu độ chúng sanh
Luôn luôn thị hiện biển Đông
Vớt người chìm đắm, khi dông gió nhiều.
                                   (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ BA:           
Ta Bà ứng hiện
Chốn U Minh nhiều chuyện khổ đau
Oan oan tương báo hại nhau
Nghe tiếng than thở, mau cứu liền.
 (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ TƯ:   
Hay trừ yêu quái
Bao nhiêu loài ma quỉ gớm ghê               
Độ cho chúng hết u mê                    
Dứt trừ nguy hiểm, không hề nhiễu nhương.
                                   (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ NĂM:
Tay cầm Dương Liễu
Nước cam lồ rưới mát nhân thiên
Chúng sanh điên đảo, đảo điên
An vui mát mẻ, ưu phiền tiêu tan .
 (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy
NGUYỆN THỨ SÁU:
Thường hành bình đẳng
Lòng từ bi thương xót chúng sanh
Hỷ xả tất cả lỗi lầm
Thường hành bình đẳng
Chúng sanh mọi loài.
                                   (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ BẢY:
Dứt ba đường dữ
Chốn ngục hình, ngạ quỉ, súc sanh
Cọp beo…, thú dữ vây quanh
Quán Âm thị hiện, chúng sanh thoát nàn .
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ TÁM:
Giải thoát còng la
Nếu tội nhân sắp bị khảo tra
Thành tâm lễ bái thiết tha
Quán âm phò hộ, thoát ra nhẹ nhàng .
 (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ CHÍN:
Cứu vớt hàm linh
Trên con thuyền Bát Nhã lênh đênh
Bốn bề biển khổ chông chênh
Quán Âm độ hết, đưa lên Niết Bàn.
 (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ MƯỜI:
Tây Phương tiếp dẫn
Tràng hoa thơm, kỹ nhạc, lộng tràng
Tràng phang, bảo cái trang hoàng
Quán Âm tiếp dẫn, đưa đàng về Tây.
 (1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN  MƯỜI MỘT:
Di Đà thọ ký
Cảnh Tây Phương, tuổi thọ khôn lường
Chúng sanh muốn sống miên trường
Quán Âm nhớ niệm, Tây Phương mau về.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy
NGUYỆN MƯỜI HAI:
Tu hành tinh tấn
Dù thân nầy tan nát cũng đành
Thành tâm nghiêm chỉnh thực hành
Mười hai câu nguyện độ sanh đời đời.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
 

TIỀN THÂN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
(Khi Ngài còn là Pháp Tạng Tỳ Kheo)
 
PHẬT THÍCH CA CÓ DẠY TRONG KINH VÔ LƯỢNG THỌ :
ĐỜI QUÁ KHỨ LÂU CÁCH HƠN 10 KIẾP, CÓ MỘT NƯỚC TÊN LÀ DIỆU HỶ, VUA ĐƯƠNG THỜI LÀ NGUYỆT THƯỢNG LUÂN VƯƠNG, HOÀNG HẬU LÀ THÙ THẮNG DIỆU NHAN. VƯƠNG HẬU SANH RA BA NGƯỜI CON. NGƯỜI CON TRƯỞNG LÀ NHỰT NGUYỆT MINH, NGƯỜI CON THỨ HAI LÀ KIỀU THI CA, NGƯỜI CON THỨ BA NHẬT ĐẾ CHÚNG. KHI ẤY CÓ ĐỨC PHẬT RA ĐỜI LÀ THẾ TỰ TẠI VƯƠNG NHƯ LAI. THÁI TỬ KIỀU THI CA BỎ NGÔI VINH QUÍ THEO PHẬT THẾ TỰ TẠI XUẤT GIA, THỌ TỲ KHEO GIỚI, PHẬT CHO HIỆU LÀ PHÁP TẠNG TỲ KHEO. NGÀI PHÁP TẠNG ĐỐI TRƯỚC PHẬT , PHÁT 48 LỜI NGUYỆN RỘNG LỚN, ĐỘ KHẮP TẤT CẢ MƯỜI PHƯƠNG CHÚNG SANH; NẾU CÓ NGUYỆN NÀO CHẲNG VIÊN MÃN, THÌ NGÀI THỀ CHẲNG THÀNH PHẬT. KHI ẤY CHƯ THIÊN RÃI HOA, TÁN THÁN, QUẢ ĐẤT RÚNG ĐỘNG, GIỮA KHÔNG TRUNG CÓ TIẾNG KHEN RẰNG: “ PHÁP TẠNG QUYẾT ĐỊNH SẼ THÀNH PHẬT HIỆU LÀ A DI ĐÀ”.
NHƯ THẾ, CHÚNG TA BIẾT RẰNG, ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ CÓ TIỀN THÂN LÀ THÁI TỬ KIỀU THI CA, BỎ NGÔI SANG, XUẤT GIA TU CHỨNG THÀNH QUẢ PHẬT LÀ A DI ĐÀ.
 
 
48 ĐẠI NGUYỆN
CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
 
        Nguyện thứ 1: Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 2: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi sau khi mạng chung lại còn sa vào ba ác đạo, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 3: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi thân chẳng màu vàng ròng tất cả, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
          Nguyện thứ 4: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi thân hình có kẻ tốt người xấu chẳng đồng nhau, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 5: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng có Túc mạng thông, ít nhất là biết rõ những việc trong trăm nghìn ức na do tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.      
         Nguyện thứ 6: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng được thiên nhãn thông, ít nhất là thấy trăm nghìn ức na do tha thế giới của chư Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác .
          Nguyện thứ 7: Lúc tôi thành Phật: nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi, chẳng được thiên nhĩ thông, ít nhất là nghe và thọ trì tất cả lời thuyết pháp của trăm nghìn ức na do tha đức Phật, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 8: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng được tha tâm trí thông, ít nhất là biết rõ những tâm niệm của tất cả chúng sanh trong trăm nghìn ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 9: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng được thần túc thông, khoảng một niệm, ít nhất lướt qua khỏi trăm nghìn ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 10: Lúc tôi thành Phật, nếu các hàng nhân thiên trong cõi nước tôi còn có quan niệm tham chấp lấy thân, thời tôi không ở ngôi Chánh giác .
          Nguyện thứ 11: Lúc tôi thành Phật, nếu các hàng nhân thiên trong cõi nước tôi chẳng trụ Chánh định tụ, nhẫn đến trọn diệt độ, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 12: Lúc tôi thành Phật, nếu quang minh còn hữu hạn, ít nhất chẳng chiếu thấu trăm nghìn ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 13: lúc tôi thành Phật: nếu thọ mạng còn hữu hạn, ít nhất chẳng đến trăm nghìn ức na do tha kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 14: Lúc tôi thành Phật, chúng Thanh Văn trong cõi nước tôi, nếu có ai tính đếm biết được số bao nhiêu như vô lượng bích chi Phật đồng tính đếm trong trăm nghìn kiếp, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
          Nguyện thứ 15: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi thọ mạng còn hữu hạn, trừ người có bổn nguyện riêng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
          Nguyện thứ 16: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi còn có người nghe danh từ bất thiện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
          Nguyện thứ 17: Lúc tôi thành Phật, nếu vô lượng chư Phật trong thập phương thế giới chẳng đều khen ngợi xưng danh hiệu của tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
          Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh, chí tâm tín mộ, muốn sanh về cõi nước tôi, nhẫn đến mười niệm, nếu không được sanh (trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch cùng huỷ báng chánh pháp), thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
           Nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát tâm Bồ đề tu các công đức nguyện sanh về cõi nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
          Nguyện thứ 20: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh nghe danh hiệu tôi, chuyên nhớ cõi nước tôi và tu các công đức chí tâm hồi hướng muốn sanh về cõi nước tôi, nếu chẳng được toại nguyện, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
           Nguyện thứ 21: Lúc tôi thành Phật, nếu như hàng nhân thiên trong cõi nước tôi, tất cả chẳng đều đầy đủ ba mươi hai đại nhân tướng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
          Nguyện thứ 22: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở cõi khác sanh về nước tôi, cứu cánh quyết đều đến bậc Nhất sanh bổ xứ, trừ người có bổn nguyện riêng tự tại hoá hiện, vì chúng sanh mà phát hoằng thệ tu các công đức độ thoát mọi loài, đi khắp các thế giới tu Bồ-tát hạnh, cúng dường thập phương chư Phật, khai hoá vô lượng chúng sanh, làm cho tất cả đều đứng vững nơi đạo Chánh giác, siêu xuất công hạnh của các bậc thông thường, hiện tiền tu tập đức hạnh của Phổ Hiền, nếu chẳng được như thế thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
          Nguyện thứ 23: Lúc tôi thành Phật, các Bồ-tát trong cõi nước tôi, thừa thần lực của Phật mà đi cúng dường thập phương chư Phật, trong khoảng thời gian một bữa ăn, nếu không đến khắp vô lượng vô số ức na do tha thế giới, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
 
         Nguyện thứ 24: Lúc tôi thành Phật, các Bồ-tát ở trong cõi nước tôi, khi ở trước thập phương chư Phật hiện công đức của mình muốn có những vật cúng dường, nếu không được như ý muốn, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 25: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ-tát trong cõi nước tôi không diễn thuyết được Nhứt thiết trí, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 26: Lúc tôi thành Phật, nếu các Bồ-tát trong cõi nước tôi chẳng đều được thân kim cương Na-la-diên, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 27: Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi, tất cả đồ dùng của nhân thiên, hình sắc đều sáng đẹp, sạch sẽ, rất tột vi diệu, không có thể tính biết, dầu là người được thiên nhãn. Nếu có người danh số các đồ ấy rõ ràng, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 28: Lúc tôi thành Phật, nếu Bồ-tát trong cõi nước tôi, dầu là người ít công đức nhất, chẳng thấy biết được cội cây Đạo tràng cao bốn trăm muôn do tuần, vô lượng quang sắc, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 29: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát trong cõi nước tôi nếu thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết kinh pháp, mà chẳng được trí huệ biện tài, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
Nguyện thứ 30: Lúc tôi thành Phật, nếu có ai hạn lượng được trí huệ của Bồ-tát trong cõi nước tôi, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 31: Lúc tôi thành Phật. cõi nước tôi thanh tịnh, nơi nơi đều soi thấy tất cả vô lượng vô số bất tư nghì thế giới ở mười phương, như là thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 32: Lúc tôi thành Phật, trong cõi nước tôi từ mặt đất vàng lên đến hư không, lầu nhà cung điện, ao nước hoa cây, tất cả vạn vật đều là vô lượng chất báu và trăm nghìn thứ hương hiệp chung lại mà thành. Vạn vật đều xinh đẹp kỳ diệu, mùi thơm xông khắp thập phương thế giới, Bồ-tát các nơi ngửi mùi thơm ấy thời đều tu hạnh của Phật. Nếu chẳng được như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
        Nguyện thứ 33: Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất khả tư nghì thế giới ở mười phương, được quang minh của tôi chạm đến thân, thời thân tâm nhu nhuyến nhẹ nhàng hơn thiên nhân. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 34: Lúc tôi thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất khả tư nghì thế giới ở mười phương nghe danh hiệu của tôi mà không được Vô sanh pháp nhẫn cùng các môn thâm tổng trì, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 35: Lúc tôi thành Phật, các người nữ trong vô lượng bất tư nghì ở mười phương vui mừng tin mến phát Bồ đề tâm, nhàm ghét thân nữ, nếu sau khi mạng chung mà còn làm thân người nữ nữa, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 36: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát trong vô lượng bất tư nghì thế giới ở mười phương nghe danh hiệu tôi, vẫn thường tu phạm hạnh mãi đến thành Phật. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 37: Lúc tôi thành Phật, hàng nhân thiên trong vô lượng bất tư nghì thế giới ở mười phương nghe danh hiệu tôi, cúi đầu đảnh lễ, năm vóc gieo xuống đất, vui mừng tin mến tu Bồ-tát hạnh, thời chư thiên và người đời đều kính trọng người đó. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 38: Lúc tôi thành Phật, hàng nhân thiên trong cõi nước tôi muốn có y phục, thời y phục tốt đúng pháp liền theo tâm niệm của người đó mà tự nhiên đến trên thân. Nếu còn phải cắt may nhuộm giặt, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 39: Lúc tôi thành Phật, nếu hàng nhân thiên trong cõi nước tôi hưởng thọ sự vui sướng không như vị lậu tận Tỳ kheo thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 40: Lúc tôi thành Phật, các Bồ-tát trong cõi nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng thế giới nghiêm tịnh của chư phật ở mười phương, thời liền được thấy rõ cả nơi trong cây báu đúng theo ý muốn như thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 41: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó nhẫn đến lúc thành Phật nếu sáu căn còn thiếu xấu, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 42: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, thảy đều giải thoát tam muội. Trụ tam muội đó trong khoảng một niệm, cúng dường vô lượng bất khả tư nghì Thế Tôn mà vẫn không mất chánh định. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 43: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi, sau khi mạng chung thác sanh nhà tôn quý. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 44: Lúc tôi thành phật, chúng Bồ-tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở, tu Bồ-tát-hạnh vẹn đủ công đức. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 45: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát ở phương khác nghe danh hiệu tôi đều đặng phổ đẳng tam muội, trụ tam muội này mãi đến lúc thành Phật, thường được thấy vô lượng bất khả tư nghì tất cả chư Phật. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
         Nguyện thứ 46: Lúc tôi thành Phật, chúng Bồ-tát trong cõi nước tôi muốn nghe pháp gì, thời liền tự nhiên đặng nghe pháp ấy. Nếu chẳng như vậy, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.   Nguyện thứ 47: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ-tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng được đến bậc bất thối chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
        Nguyện thứ 48: Lúc tôi thành Phật, nếu chúng Bồ-tát ở thế giới phương khác nghe danh hiệu tôi, mà chẳng liền được đệ nhất Âm hưởng nhẫn, đệ nhị Nhu thuận nhẫn, đệ tam Vô sanh pháp nhẫn, ở nơi Phật pháp chẳng liền được bất thối chuyển, thời tôi không ở ngôi Chánh giác.
 
 
CÁC BÀI SÁM
 
SÁM PHÁP NGUYỆN
Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội ác bởi lầm mê
Đắm trong sanh tử đã bao lần
Nay đến trước đài Vô thượng giác
Biển trần khổ lâu đời luân lạc
Với sanh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than
Con lạc lõng không nhìn phương hướng
Đoàn con dại, từ lâu vất vưởng
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng từ quang
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước
Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyền
Xin sám hối  để lòng thanh thoát.
Trí huệ quang minh như nhựt  nguyệt
Từ bi vô lượng cứu quần sanh
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi
Theo gót Ngài vượt qua khổ ải
Nương thuyền từ vượt bể ái hà
Nhớ tới Ngài : “ bờ giác không xa”
Hành thập thiện cho đời tươi sáng
Bỏ việc ác cho đời quang đãng
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi
Hình bóng  người cứu khổ chúng sanh
Để theo Ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ nguyện xin cứu khổ
Chúng con khổ nguyện xin tự  độ
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời
Phá si mê trí tuệ tuyệt vời
Con nhớ Đức Di Đà Lạc quốc
Phật A Di  Đà thân kim sắc
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào
Bốn  biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ Tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát
Quy mạng  lễ A Di Đà Phật
Ở Phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh
Cúi xin đức Từ Bi tiếp độ.(1 tiếng chuông)
 
BÀI SÁM SÁU CĂN
Đệ tử hôm nay quỳ trước điện
Chí tâm đảnh lễ đấng từ tôn
Trải bao phen sanh tử dập dồn
Trôi lăn mãi trong vòng lục đạo
Thế Tôn đã đinh ninh di giáo
Mà con còn đắm đuối mê say.
Mắt ưa xem viễn cảnh hằng ngày
Tai thích tiếng mật đường dua nịnh
Mũi quen ngữi mùi thơm bất tịnh
Lưỡi dệt thêu lắm chuyện gay go
Thân ham dùng gấm vóc se sua
Ý mơ tưởng bao la vũ trụ
Bởi lục dục lòng tham không đủ
Lấp che dần trí huệ từ lâu.
Hôm nay mong giác ngộ hồi đầu
Tâm sám hối phơi bày tỏ rõ,
Nguyện tội ác từ nay lìa bỏ
Chuyển sáu căn ra khỏi lầm mê
Trước đài sen thành kính hướng về
Tịnh tâm ý quy y Tam Bảo.
Phật giới cấm chuyên trì chu đáo
Dứt tận cùng cội rễ vô minh
Trí phàm phu tự lực khó thành
Cầu đại giác từ bi gia hộ
Dầu phải chịu muôn ngàn gian khổ
Con dốc lòng vì đạo hy sinh,
Nương từ quang tìm đến lạc thành
Đặng tự giác giác tha viên mãn.
 

SÁM NHẤT TÂM
Một lòng quy kính
Phật A Di Đà
Thế Giới Cực Lạc.
Nguyện lấy hào quang
Trong sạch soi cho
Lấy thệ từ bi
Mà nhiếp thọ cho.
Con nay chánh niệm
Niệm hiệu Như Lai
Vì đạo Bồ Đề
Cầu sanh Tịnh Độ.
Phật xưa có thệ
Nếu có chúng sanh
Muốn sanh nước ta
Hết lòng tín nguyện
Cho đến mười niệm
Nếu chẳng đặng sanh
Chẳng thành chánh giác.
Do vì nhân duyên
Niệm hiệu Phật này
Được vào trong biển
Đại thệ Như Lai
Nhờ sức từ bi
Các tội tiêu diệt
Căn lành tăng trưởng.
Khi mạng gần chung
Biết trước giờ chết
Thân không tật bệnh
Tâm không tham luyến
Ý không điên đảo
Như vào thiền định.
Phật và Thánh chúng
Tay nâng kim đài
Cùng đến tiếp dẫn
Trong khoảng một niệm
Sanh về Cực Lạc
Sen nở thấy Phật
Liền nghe Phật thừa
Chóng mở Phật Huệ
Rộng độ chúng sanh
Mãn nguyện Bồ Đề.
 
 

BÀI TỐNG TÁNG
Cuộc hồng trần xoay vần quá ngán
Kiếp phù sanh tụ tán mấy luân hồi
Người đời có biết chăng ôi
Thân người tuy có, có rồi hoàn không!
Chiêm bao khéo thấy lạ lùng
Mơ màng trong một giấc nồng mà chi
Làm cho buồn bã thế ni
Hình dung mới đó bữa nay đâu rồi?
Khi nào đứng đứng ngồi ngồi
Bây giờ thiêm thiếp như chồi cây khô.
Khi nào du lịch giang hồ
Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài.
Khi nào lược giắt trâm cài
Bây giờ gởi xác ra ngoài gò hoang.
Khi nào trau ngọc chuốt vàng
Bây giờ một nắm xương tàn lạnh tanh.
Khi nào mắt đẹp mày thanh
Bây giờ, thấy dạng thấy hình là đâu.
Khi nào lên các xuống lầu
Bây giờ một nắm cỏ sầu xanh xanh.
Khi nào liệt liệt oanh oanh
Bây giờ một trận tan tành gió mưa.
Khi nào ngựa lọc xe lừa
Bây giờ mây rước trăng đưa mơ màng.
Khi nào ra trướng vào màn
Bây giờ nhà cửa xóm làng cách xa.
Khi nào mẹ mẹ cha cha
Bây giờ bóng núi cách xa muôn trùng.
Khi nào vợ vợ chồng chồng
Bây giờ trăng khuyết còn mong chi tròn
Khi nào cháu cháu con con
Bây giờ hai ngã nước non xa vời
Khi nào cốt nhục vẹn mười
Bây giờ lá héo nhành tươi vui gì.
Khi nào bạn hữu sum vầy
Bây giờ chén rượu cuộc kỳ vắng thiu.
Cái thân như tấc bóng chiều
Như chùm bọt nước phập phều ngoài khơi.
Xưa ông Bành Tổ sống đời
Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu!
Sang mà đến bực Công Hầu
Giàu mà đến bực bấy lâu Thạch Sùng.
Nghèo mà đói khát lạnh lùng
Khổ mà tóc cháy da phòng trần ai
Phù du sớm tối một mai
Giàu sang cũng thác, xạt xài cũng vong.
Thông minh tài trí anh hùng
Si mê dại dột cũng chung một gò.
Biển trần nhiều nỗi gay go
Mau mau nhẹ gót qua đò sông mê.
Sự đời nên chán nên chê
Tầm nơi giải thoát mà về mới khôn.
Vong hồn ơi, hỡi vong hồn
Cuộc đời nay biển mai cồn tỉnh chưa?
Tỉnh rồi một giấc say sưa
Sẽ xin niệm Phật mà đưa hồn về
Hồn về Cực Lạc nước kia
Cho xa hang quỉ mà lìa kiếp ma
Nhờ ơn Đức Phật Di Đà
Phóng ra một ngọn chói lòa hào quang.
Trong khi tiếp dẫn rõ ràng
Dắt hồn ra khỏi sáu đàng nghiệp nhơn.
Quán Âm Bồ Tát vui mừng
Tay cầm nhành liễu, tay bưng kim đài
Với cùng Thế Chí các ngài
Cũng đều khuyến thỉnh lên ngai sen vàng.
Có bảo cái, có tràng phan
Có mùi hương lạ, có đàn ngọc xây
Có Trời các cõi truy tùy
Có đờn, có trống, rước đi một đường.
Rước về đến cảnh Tây Phương
Có ao Thất bảo, có hương ngũ phần
Lưu ly có đất sáng ngần
Ma ni có nước trong ngần chảy quanh
Thất trân có bảy lớp thành
Bảy hàng cây báu, bảy vành lưới châu
Có ngân các, có kim lầu
Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe.
Nghe rồi tỏ đạo Bồ Đề
Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt liền.
Đã sanh về chín phẩm sen
Mấy tai cũng xảy, mấy duyên cũng tròn.
Phật như thể mẹ tìm con
Con mà gặp mẹ lại còn lo chi
Lầu vàng đài các thiếu gì
Ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu
Không ơn, không oán, không sầu
Không già, không chết, có đâu luân hồi.
Tánh xưa nay đã tỏ rồi
Gương xưa rày đã lau chùi trần ô
Tu hành phải đợi kiếp mô
Nguồn tình biển ái đã khô bao giờ
Lựa là phải ngộ thiền cơ
Mà đèn trí huệ dễ lờ đi đâu.
Mấy lời hộ niệm trước sau
Nguyện cho thành Phật mau mau nữa mà
Phân thân ra khỏi Ta Bà
Từ bi tiếp độ những là chúng sanh.
 
 
SÁM QUY MẠNG
 
Quy Mạng thập phương Điều Ngự Sư
Diễn dương thanh tịnh vi diệu Pháp
Tam Thừa tứ quả giải thoát Tăng
Nguyện tứ từ-bi ai nhiếp thọ.
Đệ tử chúng đẳng,
Tự vi chơn tánh,
Uổng nhập mê lưu,
Tùy sanh tử dĩ phiêu trầm,
Trục sắc thanh nhi tham nhiễm.
Thập triền thập sử,
Tích thành hữu lậu chi nhơn,
Lục căn lục trần vọng tác vô biên chi tội
Mê luân khổ hải,
Thâm nịch tà đồ,
Trước ngã đam nhơn,
Cử uổng thố trực,
Lụy sanh nghiệp chướng,
Nhất thế khiên vưu.
Ngưỡng Tam-Bảo dĩ từ-bi,
Lịch nhất tâm nhi sám hối.
Sở nguyện năng nhơn chẩn bạt,
Thiện hữu đề huề,
Xuất phiền não  chi thâm uyên,
Đáo bồ-đề chi bỉ ngạn.
Thử thế phước cơ mạng vị,
Các nguyện xương long,
Lai sanh trí chủng linh miêu,
Đồng hy tăng tú.
Sanh phùng trung quốc,
Trưởng ngộ minh sư,
Chánh tín xuất gia,
Đồng chơn nhập đạo,
Tục căn thông lợi,
Tam nghiệp thuần hòa,
Bất nhiễm thế duyên,
Thường tu phạm hạnh,
Chấp trì cấm giới,
Trần nghiệp bất xâm,
Nghiêm hộ oai nghi,
Quyên phi vô tổn,
Bất phùng bát nạn,
Bất khuyết tứ duyên,
Bát-Nhã trí dĩ hiện tiền,
Bồ-Đề tâm nhi bất thối.
Tu tập chánh pháp,
Liễu ngộ đại-thừa
Khai lục-độ chi hạnh môn,
Việt tam-kỳ chi kiếp hải.
Kiến pháp tràng ư xứ xứ,
Phá nghi võng ư trùng trùng,
Hàng phục chúng ma,
Thiệu long Tam-Bảo,
Thừa sự thập phương chư Phật,
Vô hữu bì lao.
Tu học nhất thiết pháp môn,
Tất giai thông đạt,
Quảng tác phước huệ,
Phổ lợi trần sa,
Đắc lục chủng chi thần thông,
Viên nhất sanh chi Phật quả,
Nhiên hậu bất xả pháp-giới,
Biến nhập trần lao,
Đẳng Quan-Âm chi từ tâm,
Hành Phổ-Hiền chi nguyện hải,
Tha phương thử giới,
Trục loại tùy hình,
Ứng hiện sắc thân,
Diễn dương diệu pháp,
Nê-lê khổ thú, ngạ-quỷ đạo trung,
Hoặc phóng đại quang minh,
Hoặc hiện chư thần biến,
Kỳ hữu kiến ngã tướng,
Nãi chi văn ngã danh,
Giai phát bồ-đề-tâm,
Vĩnh xuất luân hồi khổ,
Hỏa hoạch băng hà chi địa,
Biến tác hương lâm,
Ẩm đồng thực thiết chi đồ,
Hóa sanh Tịnh-Độ.
Phi mao đới giác,
Phụ trái hàm oan,
Tận bãi tân toan,
Hàm triêm lợi lạc.
Tật dịch thế nhi hiện vi dược thảo,
Cứu liệu trầm kha.
Cơ cẩn thời nhi hóa tác đạo lương,
Tế chư bần nổi.
Đản hữu lợi ích,
Vô bất hưng sùng.
Thứ kỳ lụy thế oan thân,
Hiện tồn quyến thuộc,
Xuất tứ sanh chi khốt một,
Xả vạn kiếp chi ái triền,
Đẳng dữ hàm sanh,
Tề thành Phật đạo.
Hư không hữu tận,
Ngã nguyện vô cùng,
Tình dữ vô tình,
Đồng viên chủng trí.

Dịch nghĩa Sám Quy Mạng

Quy  Mạng mười phương Vô Thượng Giác
Pháp mầu vi diệu đã tuyên dương
Thánh tăng bốn quả ba thừa độ
Duỗi cánh tay vàng nguyện xót thương.

Ngược dòng chơn tánh từ lâu,
Chúng con trôi nổi biển sầu sông mê.
Thấy đâu lối thoát đường về,
Bập bềnh sóng nước chưa hề đoái lui.
Nguyên nhân hữu lậu gây rồi,
Bao nhiêu nghiệp chướng lâu đời tạo ra.
Biết đâu nẻo chánh đường tà,
Oan khiên nghiệp báo thật là nặng sâu.
Nay con khẩn thiết cúi đầu,
Phơi bày sám hối cần cầu Hồng ân.

Chí thành cầu đấng Năng Nhân,
Từ bi cứu vớt trầm luân mọi loài.
Nguyện cùng thiện hữu ra khơi,
Tìm lên bờ giác lìa nơi não phiền.
Kiếp nầy xin nguyện xây thêm,
Cao tòa phước đức vững nền đạo tâm.
Chờ mong đạo nghiệp vun trồng,
Từ bi, trí tuệ nẩy mầm tốt tươi.
Kiếp sau xin được làm người,
Sanh ra gặp pháp sống đời chân tu.

Dắt dìu nhờ bậc minh sư,
Nương vào chánh tín hạnh từ xuất gia
Sáu căn ba nghiệp thuần hòa,
Không vương tục lụy theo đà thế nhân.
Một lòng tấn đạo nghiêm thân,
Giữ gìn phạm hạnh nghiệp trần lánh xa.
Oai nghi phong độ chói lòa,
Lòng từ hộ mạng trước là vi sanh.
Lại thêm đầy đủ duyên lành,
Bao nhiêu tai nạn biến thành hư không.
Bồ đề nguyện kết một lòng,
Đài sen Bát Nhã Chơn Không hiện tiền.
Nhờ công tu tập tinh chuyên,
Đại thừa liễu ngộ chứng liền chân tâm.
Thoát ngoài kiếp hải trầm luân,
Hoằng khai lục độ hạnh môn cứu người.
Đạo tràng dựng khắp nơi nơi,
Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không.
Tà ma hàng phục đến cùng,
Truyền đăng Phật pháp nối dòng vô chung.
Vâng làm Phật sự mười phương,
Không vì lao nhọc nản lòng tinh chuyên.
Bao nhiêu diệu pháp thâm huyền,
Thảy đều thực hiện siêu nhiên độ mình.
Rồi đem phước huệ độ sanh,
Chứng nên Phật quả, hoàn thành Pháp thân.
Tùy cơ ứng biến cõi trần,
Phân thân vô số độ dần chúng sanh.
Nước từ rưới khắp nhân thiên,
Mênh mông biển Hạnh lời nguyền độ tha.
Khắp hòa thế giới gần xa,
Diễn dương diệu pháp, trước là độ sanh.
Những nơi khổ thú trầm luân,
Hào quang chiếu diệu hiện thân tốt lành.
Chỉ cần thấy dạng nghe danh,
Muôn loài thoát khỏi ngục hình đớn đau.
Phát lời nguyện ước cao sâu,
Muôn ngàn khổ địa thảy đều tiêu tan.
Bao nhiêu nghiệp trái hàm oan,
Bao nhiêu đau khổ trong hàng súc sanh.
Đều nhờ thần lực oai linh,
Sương tan núi biếc bình minh rạng ngời.
Thuốc thang cứu cấp cho đời,
Áo cơm cứu giúp cho người bần dân.
Bao nhiêu lợi ích hưng sùng,
An vui thực hiện trong vòng trầm luân.
Bao nhiêu quyến thuộc thân oan,
Cũng nguyền vượt biển trần gian nổi chìm.
Xa lìa ái nhiễm liên miên,
Đoạn trừ những mối phược triền thân tâm.
Vun trồng đạo nghiệp thiện nhân,
Cùng bao loài khác phát tâm hướng về.
Hư không dù có chuyển di,
Nguyện con muôn kiếp không hề lung lay.
Nguyện cầu vạn pháp xưa nay,
Hoàn thành trí nghiệp vững cây Bồ Đề.

 
 

SÁM NGÃ NIỆM
Con từ kiếp trước không lường
Mất chơn bản tánh nên vương cõi trần
Luân hồi sanh, tử chút thân
Thay hình đổi dạng bao lần đắng cay
Phước dư nhờ chút thiện nầy
Thân người được gặp theo thầy xuất gia
Cạo đầu mặc áo cà sa
Hủy trai, phá giới tạo ra tội nhiều
Sát sanh hại vật đủ điều
Ăn nhai uế tạp đắm yêu thân hình
Của người riêng chiếm vào mình
Nhờ duyên Tam Bảo dụng tình tiêu hoang
Bôn xu cầu cạnh đủ đường
Rượu ngon, gái đẹp lòng thường say sưa
Khinh tăng, hủy báng Phật thừa
Mẹ cha, thầy bạn u ơ bạc tình
Khoe hay, dấu dốt của mình
Sự người tốt đẹp lại sinh chê dèm
Lợi danh dối trá đã quen
Thị phi nhơn ngã đua chen với đời
Tưởng xằng chẳng lúc nào ngơi
Tấm lòng tán loạn suốt đời hư sinh
Việc người mách lẻo thời tinh
Việc mình lạy Phật tụng kinh thời lười
Bề ngoài đạo đức lòe đời
Mà trong ngã mạng khinh người gớm ghê
Biếng lười chỉ thích ngủ nghê
Tham lam bủn xỉn ai chê cũng liều
Gốc nhơ trồng cấy đã nhiều
Cánh bèo biển khổ theo chiều gió đưa!
Đã không chút thiện nương nhờ
Trong ba đường dữ bao giờ tránh qua?
Ngưỡng trông Đức Phật Di Đà
Quán Âm, Thế Chí đôi tòa thần thông
Từ bi lượng cả bao dong
Cứ con tội cáu sạch không mọi màu
Đời nầy cho chí đời sau
Sáu căn, ba nghiệp sạch làu như gương
Rỗng không tội tánh mọi đường
Khắp trong pháp giới chẳng vương bụi trần.
(1 tiếng chuông)
 
 

SÁM KHỂ THỦ
Khể thủ Tây phương an lạc quốc,
Tiếp dẫn chúng sinh đại đạo sư,
Ngã kim phát nguyện nguyện vãng sanh
Duy nguyện từ bi ai nhiếp thọ.
Đệ tử chúng đẳng phổ vị tứ ân tam hữu, 
Pháp giới chúng sinh, cầu ư chư Phật, 
Nhứt thừa vô thượng, Bồ-đề đạo cố, 
Chuyên tâm trì niệm A Di Đà Phật, 
Vạn đức hồng danh, Cầu sanh Tịnh độ. 
Hựu dĩ nghiệp trọng phước khinh, 
Chướng thâm huệ thiển, nhiễm tâm dị xí, 
Tịnh đức nan thành, 
Kim ư Phật tiền, 
Kiều cần ngũ thể, 
Phi lịch nhứt tâm, 
Đầu thành sám hối. 
Ngã cập chúng sinh, 
Khoáng kiếp chí kim, 
Mê bổn tịnh tâm, 
Tùng tham sân si, 
Nhiễm uế tam nghiệp, 
Vô lượng vô biên, 
Sở tác tội cấu, 
Vô lượng vô biên, 
Sở kết oan nghiệp, 
Nguyện tất tiêu diệt. 
Tùng ư kim nhựt, 
Lập thâm thệ nguyện, 
Viễn ly ác pháp, 
Thệ bất cánh tạo, 
Cần tu Thánh đạo, 
Thệ bất thoái đọa, 
Thệ thành Chánh giác
Thệ độ chúng sinh
A Di Đà Phật, 
Dĩ từ bi nguyện lực, 
Đương chứng tri ngã, 
Đương ai mẫn ngã, 
Đương gia bị ngã. 
Nguyện thiền quán chi trung, 
Mộng mị chi tế, 
Đắc kiến A Di Đà Phật, 
Kim sắc chi thân, 
Đắc lịch A Di Đà Phật, 
Bảo nghiêm chi độ, 
Đắc mông A Di Đà Phật, 
Cam lồ quán đảnh, 
Quang minh chiếu thân, 
Thủ ma ngã đầu, 
Y phú ngã thể, 
Sử ngã túc chướng tự trừ, 
Thiện căn tăng trưởng, 
Tật không phiền não, 
Đốn phá vô minh, 
Viên giác diệu tâm, 
Quách nhiên khai ngộ, 
Tịch quang chân cảnh, 
Thường đắc hiện tiền. 
Chí ư lâm dục mạng chung, 
Dự tri thời chí, 
Thân vô nhứt thiết, 
Bệnh khổ ách nạn 
Tâm vô nhứt thiết, 
Tham luyến mê hoặc, 
Chư căn duyệt dự, 
Chánh niệm phân minh, 
Xả báo an tường, 
Như nhập thiền định. 
A Di Đà Phật 
Dữ Quán Âm - Thế Chí, 
Chư Thánh Hiền chúng, 
Phóng quang tiếp dẫn, 
Thùy thủ đề huề, 
Lầu các tràng phan, 
Dị hương thiên nhạc, 
Tây phương thánh cảnh, 
Chiếu thị mục tiền, 
Linh chư chúng sinh 
Kiến giả văn giả, 
Hoan hỉ cảm thán, 
Phát Bồ-đề tâm. 
Ngã ư nhĩ thời, 
Thừa kim cương đài, 
Tùy tùng Phật hậu, 
Như đàn chỉ khoảnh, 
Sanh cực lạc quốc, 
Thất bảo trì nội 
Thắng liên hoa trung, 
Hoa khai kiến Phật, 
Kiến chư Bồ-tát, 
Văn diệu pháp âm, 
Hoạch vô sanh nhẫn:
Ư tu du gian,
Thừa sự chư Phật,
Thân mông thọ ký,
Đắc thọ ký dĩ,
Tam thân tứ trí,
Ngũ nhãn lục thông,
Vô lượng bách thiên,
Đà la ni môn,
Nhứt thiết công đức,
Giai tất thành tựu.
Nhiên hậu bất vi an dưỡng,
Hồi nhập Ta bà, 
Phân thân vô số,
Biến thập phương sát,
Dĩ bất khả tư nghị,
Tự tại thần lực,
Chủng chủng phương tiện,
Độ thoát chúng sinh,
Hàm linh ly nhiễm,
Hoàn đắc tịnh tâm,
Đồng sanh Tây phương,
Nhập bất thoái địa.
Như thị đại nguyện
Thế giới vô tận,
Chúng sinh vô tận,
Nghiệp cận phiền não,
Nhứt thiết vô tận,
Ngã nguyện vô tận.
Nguyện kim lễ Phật Phát nguyện

tu trì Công đức
 hồi thí hữu tình,
Tứ ân tổng báo,
Tam hữu tề tư,
Pháp giới chúng sinh,
Đồng viên chủng trí.

                          

                  Dịch nghĩa: Sám Khể Thủ

Cúi đầu lạy đức Pháp vương, 
Độ sanh về cõi Tây phương an nhàn, 
Tôi nguyền cho được bước sang, 
Cúi xin thương xót rước mang tôi về. 
Nay đệ tử thành tâm phát nguyện 
Vì bốn ơn ba cõi hữu tình, 
Khắp trong pháp giới chúng sanh, 
Cầu trên chư Phật ơn lành ban ra. 
Nhứt thừa đại, thật là vô thượng, 
Đạo Bồ đề, vô lượng chơn truyền, 
Hồng danh vạn đức kết duyên, 
Di Đà chuyên niệm, Tây thiên nguyện về. 
Bởi nghiệp trọng, thêm bề phước kém, 
Chướng đã sâu, huệ thiển vơi vơi, 
Lại thêm lòng nhiễm dễ bồi, 
Mà còn đức tịnh khó thời đạt nên. 
Nay tôi ở hiện tiền các Phật, 
Gieo vóc nằm sát đất chí thành, 
Tỏ bày một tấm chơn tình, 
Thiệt lòng sám hối tội mình những bao. 
Ta cùng với những nào các loại, 
Trải qua bao nhiêu kiếp mãi đến nay, 
Bổn tâm tịnh đã mê say, 
Buông lòng tham ố, sân, si đủ điều. 
Ba nghiệp nhiễm, biết bao dơ uế, 
Gây tội tình, nào kể cho xong. 
Nghiệp oan kết đã vô cùng 
Ngày nay cầu nguyện hai đường sạch trong. 
Từ nay đến hết, lòng khẩn thiết, 
Gắng xa lìa việc ác chẳng sanh, 
Cần tu thánh đạo cho thành, 
Dứt đường thối chuyển, quyết tình tiến lên. 
Bực chánh giác, nguyện nên đạo cả, 
Chốn mê đồ, độ cả chúng sanh, 
A Di Đà Phật chứng minh, 
Dùng Từ bi lực, thương tình hộ cho. 
Cầu khi ngủ, tưởng mơ thấm thoáng, 
Hay khi trong thiền quán lặng an, 
Thấy Di Đà Phật rõ ràng, 
Hiện ra đức tướng sắc vàng quang minh. 
Đặng vào chốn nước thành đẹp đẽ, 
Toàn thất trân đầy vẻ trang nghiêm, 
Nhờ ơn đức Phật oai thiêng, 
Nước cam lồ rưới lên trên đảnh nầy. 
Hào quang sáng phủ vây thân thể, 
Cánh tay vàng Phật để đầu tôi, 
Lấy y Phật đắp luôn hồi, 
Khiến cho chướng cũ dứt rồi còn chi. 
Thiện căn lớn, lại lìa phiền não, 
Gốc vô minh, mở tháo khỏi lòng, 
Tánh mầu viên giác khai thông, 
Tịch quang chơn cảnh được trông thấy liền. 
Lúc lâm chung gần viên thân báo, 
Biết ngày giờ sắp đáo nhơn duyên, 
Thân không ách nạn khổ phiền, 
Lòng không một chút mê huyền thích ham. 
Các căn đã hân hoan viên mãn, 
Lại rõ ràng niệm quán chánh chơn, 
Nhẹ nhàng bỏ khúc báo thân, 
Như vào thiền định vui mừng thảnh thơi. 
Vô Lượng Thọ, một ngôi pháp chủ, 
Quan Âm cùng Thế Chí hầu kề, 
Thánh Hiền đông đủ ê hề, 
Phóng quang dìu dắt đề huề tiếp tay. 
Trong lầu các phất bay phan phướn, 
Hương đượm nồng nhạc xướng thanh tao, 
Tây phương Thánh cảnh đẹp sao ! 
Hiện ra trước mặt, xiết bao vui mừng. 
Khiến hết thảy muôn trùng sinh chúng, 
Đều được nghe, thấy đúng không sai, 
Vui mừng cảm kích khen hoài, 
Bồ đề tâm địa kịp thời phát ra. 
Trong lúc ấy còn ta vui vẻ, 
Cỡi kim đài, hầu kế Phật gia, 
Móng tay vừa khảy búng ra, 
Đã về Cực lạc, đến nhà Tây phương. 
Ao thất bảo chín từng sen nở, 
Liền hóa sanh ngồi ở phẩm trên, 
Hoa nở thấy Phật hiện tiền, 
Các ngài Bồ Tát luân phiên chào mừng. 
Nghe Phật thuyết vô cùng pháp diệu, 
Nhẫn vô sanh, liễu chứng tức thời, 
Chỉ trong một khoảnh khắc thôi, 
Vâng thờ chư Phật cầu Ngài dạy cho. 
Được thọ ký còn lo chi nữa, 
Bốn trí về cùng thửa ba thân, 
Hiện bày ngũ nhãn, lục thông, 
Tổng trì vô lượng trăm ngàn pháp môn. 
Nào xiết kể các công đức tánh, 
Đều chung qui muôn hạnh tựu thành, 
Rồi sau trở lại nguyện mình, 
Tánh nương an dưỡng, thân hoành trần ai. 
Trong thế giới khắp mười phương cõi, 
Phân thân này qua lại vô cùng, 
Lực thần tự tại không lường, 
Phương nầy chước nọ mở đường độ sanh. 
Khiến lìa hết các tình nhiễm trước, 
Bổn tâm mau lại được tịnh thanh, 
Tây phương cõi Phật đồng sanh, 
Vào nơi bất thối, đến thành biến tri. 
Lời đại nguyện, gắng ghi như vậy, 
Chúng sanh và thế giới đó đây, 
Nghiệp duyên phiền não đông thay, 
Thảy còn mãi mãi, nguyện nầy không phai. 
Nay lễ Phật, nguyện nầy chí quyết, 
Rán tu trì nhứt thiết đức công, 
Bốn ân, ba cõi trả xong, 
Đáp đền ơn nghĩa khắp trong hữu tình, 
Như Lai chủng trí viên thành.

KHUYẾN TU
Vóc bào ảnh lắm người yêu tiếc,
Yêu tiếc thân cho thiệt vì thân,
Cuộc vui những ước vô ngần,
Nào hay vui vẫn là nhân chắc sầu.
Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ,
Chất huyễn hư giọt lệ lòng hoa,
Đôi mươi trẻ, chín mươi gìa,
Số phần yểu thọ khó qua vô thường.
Dép dưới giường lên giường vội biệt,
Sống ngày nay dễ biết ngày mai,
Mạng người hô hấp kinh thay?
Nghĩ cơn vĩnh biệt tiền đài mà đau.
Xót duyên kiếp vì sao ngắn ngủi,
Chấp thân chi để tủi cho thân,
Da bao những thịt, xương, gân,
Thân nầy dường thể đóng phân sạch gì.
Tóc, răng, móng khác chi đất bợn,
Mũi, dãi, đàm nên tởm xiết bao,
Bên ngoài rệp đúc, muỗi đeo,
Bên trong sán lãi lẫn vào nhớp chưa?
Nỗi nóng bức ngày trưa tiết hạ,
Cơn lạnh lùng đêm giá trời đông,
Xét thân nhơ khổ vô cùng,
Dứt lòng tham luyến, khởi lòng thoát ly.
Trách người thế mê chi lắm nhẽ,
Sánh phong lưu phô vẻ y quan,
Kẻ khờ cũng học đài trang
Để lòng điên đảo theo đàng sắc thanh.
Đầu xương sọ cài trâm thắt lụa,
Đảy da hôi ướp xạ xông hương,
Khéo đòi nhung gấm phô trương,
Chỉ tuồng che lớp vô thường hôi tanh.
Nhưng mãn tưởng ngày xanh muôn tuổi,
Lắm cơ mưu đeo đuổi yêu hoa,
Ngờ đâu tai điếc, mắt lòa,
Diêm Vương sắp rước đến tòa U Minh.
Làn tóc bạc đưa tin quỉ sứ,
Gốc răng long điềm chỉ qui âm,
Càng tài, càng sắc, càng dâm,
Càng cho đọa lạc càng lầm mà thôi.
Cuộc hành lạc một thời thương tiếc,
Nẻo luân hồi muôn kiếp đắng cay,
Đến khi sắp xuống diêm đài,
Thịt xương đau nhức, tay chân rụng rời.
Vợ lưu luyến đầy vơi giọt lệ,
Con thảm thương kể lể khóc than,
Dù cho quyến thuộc trăm ngàn,
Có ai thay đổi cho chàng được chăng?
Kẻ sống ở nặng quằn gánh tủi,
Người chết đi dong ruổi phách hồn,
Đường âm mờ tựa đêm hôm,
Trông ra quạnh quẽ bồn chồn thảm thê
Nại hà đến lạnh tê gió lốc,
Quỉ môn sang ghê gốc tiếng thương,
Bảy ngày lìa quá cõi dương,
Âm ty đã trải trăm đường hỏi tra,
Tào quan xử thét la chẳng vị,
Ngục tốt hờn tay chùy, tay xoa,
Đài gương nghiệp cảnh sáng lòa,
Soi tường thiện ác chối qua được nào.
Người nhân đức cho vào cửa phước,
Kẻ hung hoang giải trước hình ty,
Đọa đày khổ sở xiết chi,
Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm.
Rừng đao kiếm bao năm hết tội,
Kiếp sừng lông nhiều nỗi đa mang,
Trả đền cho dứt nghiệp oan,
Mới mong thoát khỏi con đường long đong.
Dù ai có to lòng lớn mật,
Mặc chàng hay báng Phật khinh Tăng,
Chẳng qua đối trước Diêm quân,
Cúi đầu co gối chịu phần xử tra.
Hồn phách đã xa chơi âm giới,
Thi hài còn ở cõi dương gian,
Có tiền mua lớp áo quan,
Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh lùng.
Xương, da, thịt sẽ cùng tan rã,
Tấm hình hài lần hóa tanh hôi,
Chỉ trong chầy sớm mà thôi,
Chầy trong bảy tháng sớm thời ít hôm.
Nét kiều diễm chập chờn xuân mộng,
Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân,
Khi xưa, tài, sắc mười phân,
Mà nay một nấm cô phần lạnh tanh.
Thời oanh liệt hùng anh đâu tá,
Cuộc ái ân hư giả còn chi,
Phất phơ cành liễu xanh rì,
Giấy tiền treo đó còn ghi mối sầu.
Bóng chiều rủ xuống màu cỏ biếc,
Bia mồ trơ một chiếc vắng không,
Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng,
Đời người đến thế là xong một đời.
Ví chăng biết tìm nơi giải thoát,
Nương về ngôi Chánh Giác Quy Y,
Luân hồi hẳn dứt có khi,
Bên trời Bát Nhã còn chi lo phiền.
Lối ma quỉ đừng riêng mưu sống,
Đất Từ Bi gieo giống Hoa Đàm,
Giữ lòng thiện, dứt lòng tham,
Gái, trai, Tăng, tục đều ham tu hành.
Rõ cảnh mộng chớ quanh đường mộng,
Biết miền chơn, kiếp chóng tu chơn,
Dần dà tính thiệt so hơn,
Tuổi xuân qua mất để hờn về sau.
Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm,
Chín phẩm đài sen chiếm ngôi vinh,
Chớ nên mình phụ lấy mình,
Trách sao Diêm lão vô tình chẳng dung.
Bỏ điều ác xin làm theo thiện,
Chừa lỗi xưa tu tiến đường sau,
Lại vì quyến thuộc bảo nhau,
Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì.
Khiến mỗi kẻ đồng quy bến giác,
Cho mọi người đều thoát sông mê,
Dù trong lao khổ dám nề,
Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin
Nguyền xin dốc tưởng tin lời Thánh,
Dám đổ cho rảnh rỗi ưu du,
Kiếp nầy chẳng chịu lo tu
Còn e kiếp khác công phu lỡ làng.
 
KHEN NGỢI HỘ PHÁP
Vi Đà, Thiên Tướng, Hộ Pháp hóa thân
Ủng hộ Phật pháp thệ hoằng thâm
Bảo xử chấn ma quân
Công đức nan luận
Kỳ đáo phó quần sanh.
Nam mô Tam Châu Cảm Ứng Vi Đà Tôn Thiên Hộ Pháp
 
 

THIÊN A TU LA
Trời, A Tu La, Dạ Xoa thảy,
Ai đến nghe pháp phải hết lòng,
Ủng hộ Phật pháp cho thường còn,
Mọi người siêng tu lời Phật dạy.
Bao nhiêu thính giả đến chổ này,
Hoặc ở cõi đất hoặc trên không,
Nương theo chánh pháp ngày đêm tu,
Cầu cho thế giới thường an ổn,
Phước trí vô biên lợi quần sanh,
Tất cả tội nghiệp đều tiêu trừ,
Dứt hẳn quả khổ vào viên tịch.
Thường dùng giới hương thoa vóc sáng,
Luôn gìn định phục mặc che thân,
Hoa mầu trí sáng khắp trang nghiêm,
Khắp xứ, khắp nơi thường an lạc.
Nam mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)
 
 CÁC NGÀY VÍA
(Tính theo ngày Âm lịch)
THÁNG GIÊNG:
Ngày 01: Khánh đản Đức Di Lặc Tôn Phật.
          22. Tổ Phước Huệ – Sắc tứ Thập Tháp Di Đà Tự (Chứng minh Đạo sư Hội Phật giáo Trung phần) viên tịch.
          30: Tổ Khánh Anh. (Thượng thủ GHTG toàn quốc VN niên khoá II, Pháp củ GHTG Nam Việt niên khoá II) viên tịch.

THÁNG HAI:
Ngày 08 : Lễ Phật Thích Ca xuất gia.
          15: Lễ Phật Thích Ca nhập diệt.
          19: Khánh đản Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
          21: Khánh đản Đức Phổ Hiền Bồ Tát.

THÁNG BA:

Ngày 16: Khánh đản Đức Chuẩn Đề Bồ Tát.

THÁNG TƯ:

Ngày  03 : Tổ Tuệ Tạng (Thượng thủ Giáo hội Tăng già toàn    quốc VN, niên khoá I) viên tịch.
       04 : Khánh đản Đức Văn Thù Bồ Tát.
      15: Đức Phật Thích Ca Đản sanh
      20: Bồ Tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân.

THÁNG SÁU:

Ngày  15: Đại đức Thích Nguyên Hương vị pháp thiêu thân (04-08-1963)
           19: Lễ Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
           19: Tổ Khánh Hoà (Sơ Tổ phong trào Chấn hưng Phật gíao miền Nam) viên tịch.
           24: Đại đức Thích Thanh Tuệ vị pháp thiêu thân (13-8-1963)
           26: Thích Nữ Diệu Quang vị pháp thiêu thân (15-08-1963)
           27: Thượng toạ Thích Tiêu Diêu vị pháp thiêu thân (16-08-1963)

THÁNG BẢY:

Ngày   13: Khánh đản Đức Đại Thế Chí Bồ Tát.
           15: Đại lễ Vu Lan Bồn (Rằm tháng bảy)
           30: Khánh đản Đức Địa Tạng Bồ Tát.

THÁNG CHÍN:

Ngày   02 : Đại đức Thích Quảng Hương vị pháp thiêu thân (05-10-1963)
            11: Đại đức Thích Thiện Mỹ vị pháp thiêu thân (27-10-1963)
            19: Lễ Đức Quán Thế Âm Bồ Tát
            30: Khánh đản Phật Dược Sư.

THÁNG MƯỜI MỘT:

Ngày  01 : Tổ Huệ Quang (Pháp chủ Giáo Hội Tăng Già Nam Việt niên khoá thứ I) viên tịch
                         17: Khánh đản Đức Phật A Di Đà.

THÁNG CHẠP:

Ngày  08 : Lễ Phật Thích Ca thành đạo
                     08 : Tổ Vĩnh Nghiêm (Thiền gia Pháp chủ Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt) viên tịch.

 
 
NHỮNG NGÀY CHAY
 
Thập trai : Mỗi tháng mười ngày:
   Mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30.
                    (Nếu tháng thiếu thì kể cả ngày 27).
Lục trai: Mỗi tháng bốn ngày:
      Mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30.
 
Tứ trai: Mỗi tháng bốn ngày:
    Mồng 1, 14, 15, 30.
 
Nhị trai: Mỗi tháng hai ngày:
      Mồng 1, 15.
 
Tam ngoạt trai: Một năm ba tháng:
              Tháng giêng, tháng bảy, tháng mười.

 
Photobucket                   
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Ngài Hộ Pháp
 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây